Sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính - ngân sách nhà nước góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu phát triển
Phát biểu tham luận về công tác quản lý tài chính - ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 và định hướng trong thời gian tới tại Phiên chính thức Đại hội Đại biểu Đảng bộ Chính phủ lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025-2030, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng (Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng) cho biết, công tác quản lý tài chính - NSNN tiếp tục đạt được nhiều kết quả nổi bật, toàn diện, hoàn thành toàn bộ 12/12 chỉ tiêu tài chính - NSNN chủ yếu giai đoạn 2021-2025. Các nguồn lực tài chính - NSNN được quản lý, huy động và sử dụng ngày càng hiệu quả, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu phát triển.

Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng trình bày tham luận tại Đại hội
Kiến tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích đầu tư kinh doanh
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, nhiệm vụ tài chính - NSNN 5 năm được thực hiện trong bối cảnh có rất nhiều biến động khó lường, khó khăn, thách thức lớn. Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư mà đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm; sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, công tác quản lý tài chính - NSNN tiếp tục đạt được nhiều kết quả nổi bật, toàn diện, hoàn thành toàn bộ 12/12 chỉ tiêu tài chính - NSNN chủ yếu giai đoạn 2021-2025. Các nguồn lực tài chính - NSNN được quản lý, huy động và sử dụng ngày càng hiệu quả, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu phát triển.
Trước hết, đã kịp thời tham mưu, triển khai các quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Bội chi NSNN bình quân 5 năm 2021-2025 khoảng 3,1-3,2% GDP; nợ công năm 2025 ước khoảng 35-36% GDP, được kiểm soát tốt, góp phần củng cố xếp hạng tín nhiệm quốc gia.
Thứ hai, pháp luật về tài chính - NSNN được tập trung hoàn thiện. Giai đoạn 2021-2025, Bộ Tài chính đã trình ban hành 32 Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, 168 Nghị định và ban hành theo thẩm quyền 436 Thông tư để tháo gỡ các điểm nghẽn gắn với đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cắt giảm thủ tục hành chính, đáp ứng yêu cầu phát triển mới. Hành lang pháp lý cho các mô hình kinh tế mới, Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam, khu thương mại tự do… từng bước được xây dựng và hoàn thiện để thu hút nguồn lực cho phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, tăng cường quản lý thu, chi NSNN theo hướng bền vững. Tỷ lệ huy động NSNN 5 năm đạt khoảng 18,3% GDP, trong khi thực hiện giảm, gia hạn thuế, phí… khoảng 1,1 triệu tỷ đồng để đồng hành, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong giai đoạn dịch bệnh toàn cầu và phục hồi kinh tế. Tỷ lệ chi đầu tư tăng từ 28% lên 32% tổng chi NSNN và tăng thu, tiết kiệm chi khoảng 1,5 triệu tỷ đồng để tăng đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, các tuyến đường cao tốc, quốc phòng, an ninh, xây dựng trường học, bệnh viện, xoá nhà tạm, nhà dột nát… Triệt để tiết kiệm chi cho các hoạt động hành chính, cùng với việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy, đã dành khoảng 17% tổng chi NSNN hằng năm cho an sinh xã hội. Nguồn lực NSNN, cùng với các nguồn lực xã hội, hệ thống tín dụng chính sách đã góp phần quan trọng trong công tác xoá đói, giảm nghèo, hỗ trợ các đối tượng chính sách, người dân, người lao động…
Thứ tư, tập trung kiến tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích đầu tư kinh doanh. Đến nay, cả nước có trên 01 triệu doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế, tăng trên 46% so với năm 2020; tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 32,2% GDP, trong đó đầu tư của khu vực tư nhân và doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 65%. Nước ta thuộc nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới; vốn FDI đóng góp khoảng 16% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Thứ năm, các thị trường vốn tiếp tục phát triển theo hướng an toàn, bền vững và hội nhập, trở thành kênh huy động vốn cho nền kinh tế. Tính đến 30/9/2025, quy mô thị trường trái phiếu đạt 3,76 triệu tỷ, tương đương 32,8% quy mô GDP, quy mô vốn hóa thị trường chứng khoán đạt trên 9 triệu tỷ đồng, tương đương 78,4% quy mô GDP. Năm 2025, đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chí và được quốc tế nâng hạng thị trường chứng khoán từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi, tạo cơ hội lớn để huy động các nguồn lực trung và dài hạn từ các quỹ, các nhà đầu tư quốc tế phục vụ phát triển kinh tế.

Thực hiện chính sách tài khóa có trọng tâm phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ
Nhằm đạt được mục tiêu đầy thách thức, Đảng ủy Chính phủ đã chủ động chỉ đạo xây dựng hệ thống các giải pháp của ngành tài chính, trong đó, đáng lưu ý là 03 giải pháp trọng tâm sau đây:
Trước hết, tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật, cắt giảm tối đa thủ tục hành chính gắn với đẩy mạnh chuyển đổi số, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, thông thoáng, đưa thể chế thành lợi thế cạnh tranh để khơi thông nguồn lực xã hội, khuyến khích đổi mới sáng tạo. Phấn đấu đến năm 2028, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam thuộc nhóm 3 nước hàng đầu ASEAN và nhóm 30 nước hàng đầu thế giới.
Trình Bộ Chính trị ban hành và tổ chức triển khai hiệu quả các Nghị quyết về kinh tế nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về kinh tế tư nhân.
Phấn đấu đến năm 2030, có 2 triệu doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế; 50 doanh nghiệp nhà nước trong nhóm 500 doanh nghiệp có doanh thu lớn nhất ASEAN và 1-3 doanh nghiệp trong nhóm 500 của thế giới. Trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 khu vực châu Á.
Hoàn thiện hành lang pháp lý về tài chính - NSNN để góp phần khai thác các xu thế mới toàn cầu về tài sản số, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh; phát triển các thị trường vốn, chứng khoán trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế.
Cùng với đó, triển khai hiệu quả Quy hoạch tổng thể quốc gia, các quy hoạch gắn với phát triển các vùng động lực, hành lang kinh tế, khai thác không gian phát triển mới sau sắp xếp địa giới hành chính. Thúc đẩy liên kết vùng và đô thị hóa chất lượng cao, tạo lợi thế cạnh tranh mới cho đất nước.
Ngoài ra, thực hiện chính sách tài khóa chủ động, mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm; phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao, bền vững.
Phát huy nguồn lực từ NSNN cùng với nguồn lực toàn xã hội để thực hiện hiệu quả 3 đột phá chiến lược, các Nghị quyết đột phá của Bộ Chính trị... Trong đó, bảo đảm bố trí 3% tổng chi NSNN hằng năm cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2030, tỷ trọng kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP, nước ta thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử./.
LG



