Nghị quyết 57-NQ/TW do Bộ Chính trị ban hành ngày 22/12/2024 là văn kiện mang tính bước ngoặt, đề ra chủ trương đột phá phát triển khoa học công nghệ (KH&CN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số (CĐS) quốc gia. Nghị quyết khẳng định đây là động lực then chốt để hiện đại hóa lực lượng sản xuất, “đi tắt đón đầu” trong kỷ nguyên mới.
Với tầm nhìn đến 2030 và 2045, Nghị quyết 57 đặt mục tiêu đưa Việt Nam thành quốc gia phát triển, cạnh tranh toàn cầu nhờ KH&CN và ĐMST. Để hiện thực hóa khát vọng này, cần một hệ thống giải pháp toàn diện nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn cố hữu và tạo bứt phá trên tất cả các phương diện: thể chế chính sách, nguồn lực nhân tài, doanh nghiệp và hệ sinh thái, hạ tầng và hợp tác quốc tế. Bài viết đề xuất các nhóm giải pháp chính, tham chiếu tinh thần Nghị quyết 57 và kinh nghiệm quốc tế, nhằm thúc đẩy mạnh mẽ KH&CN, ĐMST và CĐS ở Việt Nam giai đoạn tới.
Hoàn thiện thể chế, chính sách (2025–2030)
“Hoàn thiện thể chế” là ưu tiên hàng đầu. Nghị quyết 57 nhấn mạnh phải đưa thể chế trở thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển KH&CN, ĐMST, CĐS. Trong phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Tổng Bí Thư Tô Lâm đã chỉ đạo: “trong năm 2025, càng sớm càng tốt phải hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định pháp luật, cơ chế chính sách, tháo gỡ hết các điểm nghẽn, rào cản để phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, giải phóng tối đa sức sáng tạo, khuyến khích dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm (những quy định nào cần loại bỏ thì bỏ luôn, luật nào phải sửa thì sửa luôn, đồng bộ, thống nhất, tinh thần là thông thoáng, 1 nội dung chỉ quy định ở 1 luật. Cần có tư duy mới, cách tiếp cận trong sửa đổi Luật công nghệ thông tin, Luật khoa học và công nghệ, Luật ngân sách nhà nước, Luật quan lý sử dụng tài sản công và Luật viên chức đồng bộ hóa các qui định pháp luật có liên quan). Chúng ta khuyến khích người năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm trước hết phải bằng chính các quy định của pháp luật, tạo không gian cho người quản lý quyết định và chịu trách nhiệm”.
|
 |
Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia
|
Thực tế, ngay đầu năm 2025, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 03/NQ-CP – chương trình hành động toàn diện thực hiện NQ57; Quốc hội đã ban hành kế hoạch 3260-KH/ĐĐQH thực hiện NQ57 – với tầm nhìn dài hạn và các giải pháp khả thi, phân công trách nhiệm rõ ràng. Đây là bước đi kịp thời để bảo đảm Nghị quyết sớm đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, để thể chế thực sự “thông thoáng, kiến tạo phát triển” như chỉ đạo của Tổng Bí thư, cần tiếp tục rà soát, xóa bỏ các rào cản pháp lý đang cản trở nghiên cứu và đổi mới.
Trước hết, sửa đổi ngay những quy định bất cập kìm hãm hoạt động KH&CN. Một ví dụ điển hình là giới hạn tuổi hưu đối với các nhà khoa học trong khu vực công. Hiện nay, giáo sư, phó giáo sư ở trường đại học công lập chỉ được kéo dài làm việc tối đa 5 năm sau tuổi hưu, theo NĐ 50/2022/NĐ-CP – thậm chí thấp hơn quy định trước đây (Giáo sư 10 năm, Phó giáo sư 7 năm). Quy định “cào bằng” tuổi nghỉ hưu này bị nhiều chuyên gia phê bình là hành chính hóa khoa học và đi ngược thông lệ quốc tế, nơi phần lớn giáo sư vẫn tiếp tục nghiên cứu, giảng dạy không bị ràng buộc tuổi tác. Thực tế, không ít nhà khoa học tâm huyết, kinh nghiệm khi nghỉ hưu sớm đã cảm thấy hụt hẫng vì không được cống hiến tiếp. Do đó, cần mạnh dạn bãi bỏ giới hạn cứng về tuổi đối với các nhà khoa học có năng lực, trao quyền cho các đơn vị tự quyết định sử dụng nhân tài dựa trên hiệu quả cống hiến (KPI) thay vì tuổi đời. Việc này sẽ giúp Việt Nam tận dụng được chất xám của các chuyên gia đầu ngành “khi còn khả năng được tiếp tục làm việc, cống hiến và đào tạo thế hệ kế cận”.
Bên cạnh đó, cần chấp nhận những cơ chế thử nghiệm đột phá để giải phóng sức sáng tạo. Nghị quyết 57 nêu rõ: phải tạo khung chính sách phù hợp với bản chất hoạt động KH&CN – vốn có độ trễ và rủi ro nhất định. Điều này có nghĩa là pháp luật cần cho phép chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu ở mức độ tính toán được. Cụ thể, nên xây dựng các cơ chế thí điểm, sandbox cho công nghệ mới, tức là cho phép thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ công nghệ trong phạm vi giới hạn, dưới sự giám sát của cơ quan quản lý. Tại hội nghị về chiến lược KH,CN&ĐMST cuối 2023, Thứ trưởng Bộ KH&CN nhấn mạnh cần có cơ chế chính sách đặc thù, “chấp nhận độ trễ và rủi ro”, thử nghiệm triển khai chính sách mới và mô hình kinh doanh mới. Trên thực tế, khái niệm regulatory sandbox đã được nói đến nhiều năm qua ở Việt Nam, nhưng việc triển khai còn rất hạn chế. Giai đoạn 2016-2021, cả nước chỉ có 2 chương trình thí điểm tương tự sandbox (dịch vụ taxi công nghệ và Mobile Money).
Trong khi đó, nhiều nước đã áp dụng sandbox thành công để quản lý hiệu quả công nghệ mới. Do vậy, Chính phủ cần sớm trình Quốc hội ban hành cơ chế pháp lý cho sandbox công nghệ trên các lĩnh vực như fintech, AI, xe tự lái, công nghệ sinh học..., cho phép thử nghiệm nhanh trong khuôn khổ quản lý rủi ro phù hợp. Nguyên tắc là “vướng đâu gỡ đó” – pháp luật phải được cập nhật kịp thời trước những mô hình, sản phẩm mới mà luật hiện hành chưa điều chỉnh. Tinh thần “vừa quản lý chặt chẽ, vừa kiến tạo phát triển” cần được quán triệt: nhà nước tạo hành lang linh hoạt để công nghệ mới sớm ra đời, đồng thời giám sát để bảo vệ lợi ích công cộng.
Cuối cùng, bảo đảm mọi chính sách được thực thi quyết liệt và hiệu quả. Nghị quyết 57 đã thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương do Tổng Bí thư làm Trưởng ban, cho thấy quyết tâm chính trị rất cao. Quốc hội, Chính phủ phải tiên phong “đi đầu tháo gỡ thể chế”. Việc phân công phải rõ ràng “ai làm, làm gì, trách nhiệm ra sao, thời gian và kết quả thế nào”. Có như vậy mới “quán triệt nhận thức đi đôi với bước đi mạnh mẽ, đồng bộ” từ trung ương đến địa phương. Thể chế thông thoáng, khung pháp lý ổn định sẽ tạo niềm tin và động lực để nhà khoa học và doanh nghiệp dám đầu tư dài hạn vào R&D.
Nguồn lực và nhân tài – nền tảng cho đổi mới
Bên cạnh thể chế, nhân lực và tài chính là hai trụ cột quyết định thành bại của chiến lược KH&CN, ĐMST. Nghị quyết 57 đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ “nhanh chóng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; ban hành cơ chế thu hút nhân tài, trong đó trí thức người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia quốc tế”. Để làm được điều đó, cần một cuộc cải cách triệt để cơ chế trọng dụng nhân tài.
Trước hết, cần sớm hình thành Chương trình quốc gia thu hút nhân tài tham gia các dự án trọng điểm. Việt Nam có lợi thế là mạng lưới hơn 600.000 chuyên gia, trí thức người Việt ở nước ngoài trong nhiều lĩnh vực. Đây là nguồn lực chất xám quý giá, nhưng việc tiếp cận, kết nối chưa thực sự hiệu quả. Tương tự, nhiều chuyên gia quốc tế cũng sẵn sàng đến Việt Nam làm việc nếu có môi trường và đãi ngộ phù hợp. Bài học từ Trung Quốc: từ năm 2008 họ triển khai “Kế hoạch Nghìn nhân tài” với kinh phí hậu hĩnh, thu hút hàng loạt nhà khoa học hàng đầu trở về nước, giúp nâng tầm nghiên cứu trong nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy các chương trình chiêu mộ nhân tài trẻ của Trung Quốc “hiệu quả trong việc thu hút và phát triển các nhà khoa học xuất sắc”, những người này sau đó công bố nhiều công trình có giá trị vượt trội. Singapore cũng rất chú trọng “đãi cát tìm vàng”: Họ xây dựng các trung tâm R&D hàng đầu như Biopolis (khu đô thị khoa học sự sống) nhằm “thu hút nhân tài toàn cầu và tạo hệ sinh thái nghiên cứu đẳng cấp thế giới”.
Hiện nay khoảng 70% nhà khoa học làm việc tại Biopolis là người nước ngoài – minh chứng cho sức hấp dẫn của môi trường nghiên cứu tại Singapore. Từ những kinh nghiệm đó, Việt Nam cần có chính sách đột phá về thu hút chuyên gia. Cụ thể: mời gọi các giáo sư, nhà khoa học giỏi (gốc Việt và nước ngoài) về nước hợp tác nghiên cứu thông qua các dự án, đề án KH&CN trọng điểm quốc gia; đãi ngộ xứng đáng (lương, nhà ở, điều kiện làm việc) tương xứng với thu nhập và cơ hội ở các nước phát triển. Một tín hiệu tích cực là Chính phủ vừa ban hành Nghị định 179/2024 về chính sách thu hút và trọng dụng người có tài năng trong cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, chính sách không chỉ giới hạn ở khu vực công, mà quan trọng hơn là tạo điều kiện cho khu vực tư nhân, các viện trường tuyển dụng chuyên gia xuất sắc với thủ tục thông thoáng (ví dụ cơ chế hợp đồng đặc biệt, miễn giấy phép lao động, giảm thuế thu nhập…). Hàn Quốc từng miễn thuế thu nhập cá nhân 5 năm cho chuyên gia nước ngoài làm R&D trong một số ngành công nghệ cao – những ý tưởng như vậy đáng để tham khảo nhằm cạnh tranh thu hút nhân tài quốc tế.
Song song với thu hút nhân tài bên ngoài, phải nuôi dưỡng và phát huy nguồn lực trong nước, đặc biệt là thế hệ trẻ. Cần mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả các quỹ hỗ trợ ĐMST, quỹ tài năng trẻ để ươm tạo ý tưởng sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra thị trường. Hiện nay, Chính phủ đã giao các bộ ngành nghiên cứu thành lập Quỹ Đổi mới sáng tạo để thúc đẩy ĐMST quốc gia. Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu xây dựng khung khổ pháp lý và một quỹ phát triển ĐMST phù hợp điều kiện Việt Nam. Quỹ này khi hình thành sẽ cấp vốn hạt giống cho các dự án nghiên cứu triển vọng, đặc biệt ưu tiên các nhà khoa học trẻ, các startup công nghệ. Ngoài ra, có thể huy động khối tư nhân cùng đóng góp vào quỹ theo mô hình hợp tác công – tư (PPP) để gia tăng nguồn lực.
Cùng với đó, cần phát động một phong trào quốc gia về đào tạo kỹ năng số cho toàn dân. Chuyển đổi số chỉ thành công khi người lao động có kỹ năng phù hợp. Nhiều báo cáo cho thấy lực lượng lao động Việt Nam còn thiếu kỹ năng về công nghệ, đặc biệt trong các ngành thâm dụng tri thức. Do vậy, Nhà nước nên hỗ trợ các chương trình upskill, reskill quy mô lớn, từ đào tạo kiến thức cơ bản về tin học, dữ liệu cho công nhân viên chức, đến các khóa chuyên sâu về lập trình, AI cho sinh viên, kỹ sư. Những chương trình như liên kết giữa NIC và Google đào tạo nhân tài số cho hàng nghìn sinh viên nên được nhân rộng. Mục tiêu đến năm 2025 có 80% người trưởng thành có kỹ năng số cơ bản, tiến tới năm 2030 lực lượng lao động sẵn sàng cho nền kinh tế số.
Một chỉ tiêu quan trọng là nâng mật độ nhân lực nghiên cứu khoa học. Theo Chiến lược phát triển KH,CN&ĐMST đến 2030, Việt Nam đặt mục tiêu đạt 12 nhà nghiên cứu trên một vạn dân vào năm 2030 (quy đổi toàn thời gian), tăng đáng kể so với khoảng 7 người/1 vạn dân hiện nay. Để đạt mục tiêu đó, cần đầu tư mạnh vào đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ trong các lĩnh vực mũi nhọn; đồng thời thu hút các nhà khoa học Việt kiều về nước như đã nêu. Việc hình thành đội ngũ 12 người nghiên cứu/1 vạn dân sẽ đưa Việt Nam tiệm cận mức trung bình của các nước phát triển, tạo sức bật cho hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.
Doanh nghiệp và hệ sinh thái ĐMST
Doanh nghiệp phải là trung tâm của hệ thống ĐMST. Thực tiễn các nước cho thấy phần lớn các phát minh, sáng chế được thương mại hóa là từ doanh nghiệp. Chiến lược KH,CN&ĐMST quốc gia cũng xác định cần phát triển hệ sinh thái ĐMST mà “trong đó, các doanh nghiệp lớn đóng vai trò trung tâm dẫn dắt các hoạt động ĐMST”, còn nhà nước kiến tạo môi trường và liên kết viện trường với doanh nghiệp. Hiện nay, đóng góp từ doanh nghiệp Việt Nam cho R&D còn khá khiêm tốn, chủ yếu mới dừng ở các tập đoàn FDI lớn. Do vậy, cần tạo môi trường khuyến khích mọi doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp tư nhân trong nước, tích cực đầu tư đổi mới.
Trước hết, sử dụng đòn bẩy thuế và tín dụng để khuyến khích doanh nghiệp tăng chi cho R&D. Tại nhiều quốc gia, doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế đặc biệt cho khoản chi R&D – ví dụ Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc cho phép khấu trừ 150% đến 250% chi phí R&D khi tính thuế, như một hình thức “siêu khấu trừ”. Ở Việt Nam, Luật thuế TNDN hiện hành cho phép trích một phần lợi nhuận trước thuế vào Quỹ phát triển KH&CN, nhưng tối đa chỉ 10% và thủ tục sử dụng rất phức tạp. Kết quả là số doanh nghiệp lập quỹ còn ít và chỉ khoảng 60% tiền quỹ được sử dụng cho hoạt động KH&CN – phần còn lại bị “đóng băng” do vướng quy định phải dùng 70% sau 5 năm, nếu không sẽ bị truy thu thuế. Chính sách này vô hình trung không khuyến khích doanh nghiệp để dành nguồn lực cho các dự án nghiên cứu dài hạn. Do đó, Nhà nước nên bãi bỏ trần 10% và nới lỏng các ràng buộc với quỹ R&D doanh nghiệp. Thay vào đó, có thể áp dụng hình thức khuyến khích trực tiếp hơn: chẳng hạn, cho phép khấu trừ 150% chi phí R&D vào chi phí được trừ khi tính thuế TNDN (như đề xuất của ĐBQH Nguyễn Như So). Điều này sẽ tạo động lực tài chính mạnh mẽ để doanh nghiệp “mạo hiểm hơn trong các dự án đổi mới công nghệ và phát triển sản phẩm mới”. Song song, cần có chính sách tín dụng ưu đãi (lãi suất thấp, quỹ bảo lãnh vay vốn) cho doanh nghiệp công nghệ, đặc biệt là startup đổi mới sáng tạo, để họ có nguồn lực triển khai ý tưởng.
Tiếp theo, phát triển các trung tâm ĐMST và vườn ươm công nghệ kết nối doanh nghiệp – viện trường. Chính phủ đã thành lập Trung tâm ĐMST Quốc gia (NIC) tại Hà Nội, với cơ sở vật chất hiện đại và sự tham gia của nhiều đối tác lớn. NIC được kỳ vọng trở thành “điểm hẹn của trí tuệ” từ khắp nơi, nơi ươm tạo các ý tưởng và doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới. Thủ tướng mong muốn NIC “trở thành nơi quy tụ các trí thức toàn cầu để lan tỏa giá trị ĐMST ra toàn xã hội”. Thời gian tới, nên xem xét thành lập thêm một số trung tâm ĐMST tầm cỡ quốc gia tại các địa phương có tiềm năng (TP.HCM, Đà Nẵng…), tạo mạng lưới liên kết vùng. Bên cạnh đó, cần hình thành các khu sandbox, phòng thí nghiệm sống cho những lĩnh vực công nghệ mới: ví dụ một khu thử nghiệm về AI và robotics, nơi doanh nghiệp có thể đem sản phẩm AI thử nghiệm thực tế với sự hỗ trợ của nhà quản lý; hay sandbox fintech dưới sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước cho phép thử nghiệm các dịch vụ tài chính số sáng tạo. Việc Hà Nội tận dụng Luật Thủ đô (sửa đổi) để thí điểm sandbox cho một số ngành mũi nhọn như chip vi mạch, AI… là hướng đi đáng hoan nghênh. Nếu mô hình thành công, có thể nhân rộng ra toàn quốc, tạo nên những “đặc khu công nghệ” thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới đột phá.
|
 |
Nghiên cứu các mô hình robot tại Trung tâm Đổi mới sáng tạo về internet vạn vật (Khu công nghệ cao Hòa Lạc, huyện Thạch Thất, TP Hà Nội). Ảnh: qdnd.vn |
Ngoài ra, cải thiện môi trường kinh doanh và hệ sinh thái khởi nghiệp cũng rất quan trọng. Thủ tục thành lập doanh nghiệp khoa học-công nghệ, thủ tục đăng ký sáng chế, nhãn hiệu cần tiếp tục đơn giản hóa, rút ngắn thời gian. Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới sáng tạo thông qua mạng lưới vườn ươm (incubator), gia tốc khởi nghiệp (accelerator). Kết nối doanh nghiệp lớn với startup theo mô hình open innovation – các tập đoàn có thể đặt hàng bài toán để startup giải quyết, qua đó đôi bên cùng có lợi.
Mục tiêu cuối cùng là tạo một thế hệ doanh nghiệp Việt Nam coi ĐMST là văn hóa cốt lõi. Khi đó, doanh nghiệp sẽ trở thành “cỗ máy chủ lực” kéo theo cả hệ sinh thái đi lên – đúng như tinh thần NQ57 muốn “doanh nghiệp thực sự là trung tâm đổi mới sáng tạo”.
Hạ tầng hiện đại và hợp tác quốc tế
Hạ tầng số và khoa học là nền móng để triển khai mọi hoạt động đổi mới. NQ57 đề ra nhiệm vụ “tăng cường đầu tư hạ tầng cho KH,CN, ĐMST và CĐS”. Trước mắt, cần ưu tiên phát triển hạ tầng số hiện đại. Chính phủ xác định phương châm “hạ tầng số phải đi trước một bước”. Điều này đồng nghĩa với việc đẩy nhanh triển khai mạng 5G trên phạm vi toàn quốc, tiến tới thử nghiệm công nghệ 6G khi có thể. Hiện các doanh nghiệp viễn thông lớn của Việt Nam đã sẵn sàng cho thương mại hóa 5G, cần sự hỗ trợ chính sách để tăng tốc độ phủ sóng. Cùng với đó, xây dựng một Trung tâm dữ liệu quốc gia quy mô lớn phục vụ nhu cầu lưu trữ, xử lý dữ liệu của Chính phủ và doanh nghiệp. Khuyến khích phát triển các nền tảng điện toán đám mây nội địa đủ mạnh, đảm bảo an toàn cho dữ liệu Việt Nam. Song song, hoàn thiện hạ tầng vật lý cho nghiên cứu: đầu tư các phòng thí nghiệm trọng điểm về trí tuệ nhân tạo, sinh học, vật liệu mới; nâng cấp cơ sở của các viện nghiên cứu công lập theo hướng hiện đại và mở cho doanh nghiệp, trường đại học cùng sử dụng.
Trong mọi dự án, phải quán triệt yêu cầu bảo đảm an ninh mạng và chủ quyền số quốc gia. Nghị quyết 57 nêu rõ: đảm bảo an ninh, an toàn thông tin và an ninh dữ liệu là yêu cầu “xuyên suốt, không thể tách rời” trong quá trình phát triển KH,CN,ĐMST và CĐS. Do đó, các hệ thống hạ tầng số cần tuân thủ tiêu chuẩn an ninh ngay từ thiết kế. Dữ liệu quan trọng phải được lưu trữ an toàn, có phương án dự phòng tại chỗ. Phát triển kinh tế số nhưng không đánh đổi an ninh quốc gia – đây là nguyên tắc nhất quán. Việt Nam cũng cần chủ động xây dựng năng lực phòng thủ không gian mạng ngang tầm các nước tiên tiến, nhằm bảo vệ hạ tầng số trước nguy cơ tấn công mạng ngày càng gia tăng.
Về hợp tác quốc tế, Việt Nam nên tích cực tranh thủ sự hỗ trợ của các đối tác và tổ chức đa phương để thúc đẩy ĐMST. Trước hết, thu hút các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới đặt cơ sở R&D tại Việt Nam thông qua ưu đãi và mô hình PPP. Trường hợp thành công nhất là Samsung: Tập đoàn này đã đầu tư gần 20 tỷ USD vào Việt Nam và khánh thành Trung tâm R&D 220 triệu USD tại Hà Nội – trung tâm lớn nhất Đông Nam Á của Samsung. Sự hiện diện của Samsung R&D với hơn 2.300 kỹ sư sẽ góp phần “nâng tầm Việt Nam từ cứ điểm sản xuất lên cứ điểm chiến lược về nghiên cứu phát triển”. Tới đây, ta có thể mời gọi thêm các hãng như Intel, Google, Microsoft, Toyota… mở trung tâm nghiên cứu hoặc vườn ươm tại Việt Nam. Nhà nước cần ưu đãi đủ hấp dẫn (về thuế, đất đai, nhân lực) và đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ để doanh nghiệp nước ngoài yên tâm đầu tư cho R&D. Mô hình hợp tác PPP có thể áp dụng: ví dụ liên kết Bộ KH&CN với một tập đoàn đa quốc gia để lập phòng thí nghiệm chung, cùng nghiên cứu một số hướng công nghệ, kết quả chia sẻ đôi bên.
|
 |
Thủ tướng Phạm Minh Chính dự lễ khánh thành Trung tâm Nghiên cứu và phát triển (R&D) của Samsung tại Việt Nam (Ảnh: VGP/Nhật Bắc) |
Cùng với đó, tăng cường hợp tác chính sách với các tổ chức quốc tế như OECD, WIPO, World Bank. OECD có nhiều khuyến nghị quý báu về xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suất mà Việt Nam có thể học hỏi. WIPO (Tổ chức SHTT Thế giới) hỗ trợ các nước nâng cao chỉ số Global Innovation Index (GII) – Việt Nam nên tranh thủ tư vấn từ WIPO để cải thiện các chỉ số về thể chế, nhân lực, thị trường trong GII, phấn đấu lọt Top 40 quốc gia ĐMST hàng đầu vào năm 2030. Ngân hàng Thế giới (WB) cũng có kinh nghiệm triển khai các dự án đổi mới sáng tạo ở Việt Nam (như dự án FIRST trước đây), có thể tiếp tục là đối tác cung cấp vốn vay ưu đãi và chuyên gia cho các chương trình ĐMST, CĐS quy mô lớn. Hợp tác quốc tế còn giúp Việt Nam đón đầu tri thức mới: thông qua các chương trình đồng nghiên cứu với nước ngoài, trao đổi nhà khoa học, tham gia mạng lưới học thuật toàn cầu… Thực tế, Mạng lưới ĐMST Việt Nam những năm qua đã mở rộng tới Đức, Úc, Nhật, Mỹ… kết nối hàng nghìn chuyên gia người Việt toàn cầu sẵn sàng đóng góp cho quê hương. Đây là mô hình tốt cần duy trì và hỗ trợ, để Việt Nam gắn kết chặt chẽ hơn với dòng chảy tri thức thế giới.
Kinh nghiệm quốc tế, bài học cho Việt Nam
Nhìn ra quốc tế, nhiều quốc gia đã thành công nhờ chiến lược phát triển KH&CN táo bạo và nhất quán, từ đó rút ra bài học cho Việt Nam:
Hàn Quốc: Từ một nước nghèo những năm 1960, Hàn Quốc vươn lên hàng đầu thế giới về công nghệ nhờ đầu tư mạnh cho R&D và cải cách thể chế quyết liệt. Ngay từ thập niên 1970, Hàn Quốc đã áp dụng phổ biến các chính sách ưu đãi thuế cho hoạt động nghiên cứu, tạo động lực cho doanh nghiệp lập phòng thí nghiệm và trung tâm R&D. Họ xây dựng một mạng lưới rộng khắp các viện nghiên cứu liên kết doanh nghiệp – đến 2005 có gần 12.000 tổ chức nghiên cứu thuộc doanh nghiệp, là “động lực cơ bản thúc đẩy R&D quốc gia”. Về thể chế, Hàn Quốc cũng không ngại thử nghiệm những mô hình mới: năm 2019, nước này ban hành luật Regulatory Sandbox, cho phép miễn một số quy định để thử nghiệm sản phẩm công nghệ trong thực tế. Chỉ trong thời gian ngắn, hàng chục dịch vụ fintech, xe tự hành… đã được cấp phép thí điểm, giúp doanh nghiệp sớm hoàn thiện sản phẩm trước khi thương mại hóa. Bài học từ Hàn Quốc là nhà nước đóng vai trò “bà đỡ” cho ĐMST – hỗ trợ về tài chính (qua ưu đãi thuế, quỹ đầu tư), tạo môi trường pháp lý linh hoạt, đồng thời liên kết chặt viện trường với doanh nghiệp (qua các chương trình như Regional Research Center, Techno Park). Nhờ đó, Hàn Quốc hiện chi gần 5% GDP cho R&D (top đầu thế giới) với hơn 75% đến từ doanh nghiệp.
Trung Quốc: Xác định “nhân tài là nguyên khí”, Trung Quốc triển khai nhiều chương trình chiêu mộ nhân tài quy mô lớn. Ngoài “Nghìn nhân tài” cho giới khoa học cao cấp, họ có “Vạn nhân tài” ở các địa phương, cấp kinh phí hào phóng để thu hút chuyên gia về làm việc tại các tỉnh, thành. Nước này xây dựng hàng loạt phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và công viên công nghệ cao ở các đô thị lớn, mời gọi người tài cả trong và ngoài nước tham gia nghiên cứu. Nhờ mức lương cạnh tranh và điều kiện nghiên cứu thuận lợi, nhiều giáo sư hàng đầu người Hoa ở Mỹ, châu Âu đã về nước thành lập nhóm nghiên cứu. Kết quả, trong 20 năm (2000–2020), số nhà nghiên cứu của Trung Quốc tăng gấp nhiều lần, vươn lên đứng số 1 thế giới (hơn 2 triệu người). Số bằng sáng chế và bài báo quốc tế cũng tăng vọt, đóng góp vào sức mạnh công nghệ tổng thể. Bài học: muốn “đi tắt đón đầu” phải đầu tư cho nhân lực chất lượng cao. Trung Quốc chấp nhận chi lớn cho giáo dục và khoa học (hiện nay chi R&D ~2.4% GDP, đứng thứ 2 toàn cầu về tổng chi), tập trung vào các lĩnh vực then chốt như AI, lượng tử, không gian. Song song, họ cởi mở hợp tác quốc tế để học hỏi: hàng chục nghìn sinh viên được gửi đi đào tạo ở Mỹ, châu Âu mỗi năm; đồng thời mời các chuyên gia ngoại đến giảng dạy, cố vấn tại Trung Quốc.
Singapore: Quốc gia này trở thành trung tâm ĐMST của châu Á nhờ chiến lược thu hút “chất xám toàn cầu” và xây dựng hệ sinh thái nghiên cứu đẳng cấp. Ngay từ đầu những năm 2000, Singapore đã lập A*STAR – Cơ quan Khoa học, Công nghệ và Nghiên cứu – quản lý các viện nghiên cứu công lập và chương trình học bổng khoa học. Trong 20 năm, A*STAR đã trao hơn 3.400 học bổng đào tạo TS trong và ngoài nước, tạo “nguồn cung nhân tài khoa học vững chắc cho đất nước”. Mặt khác, Singapore chi mạnh tay để xây dựng các cơ sở R&D hiện đại: khu Biopolis (2003) dành cho khoa học sự sống, khu Fusionopolis cho công nghệ thông tin, vật liệu… Tại Biopolis, Chính phủ đầu tư nhà xưởng hiện đại rồi mời các viện hàng đầu thế giới tới đặt labo nghiên cứu. 70% nhà khoa học ở đây là người nước ngoài, cho thấy Singapore rất thành công trong thu hút chất xám quốc tế. Kết quả, chỉ trong một thập kỷ, sản lượng ngành công nghiệp sinh học Singapore tăng gần 5 lần (từ 6 tỷ SGD năm 2000 lên 29,4 tỷ SGD năm 2012). Singapore cũng nổi tiếng với chính sách thị thực thông thoáng cho nhân tài: gần đây họ ra mắt “One Pass” – thị thực 5 năm cho chuyên gia hàng đầu mọi lĩnh vực, lương cao hoặc thành tựu nổi bật, để thu hút nhân lực khắp nơi đến làm việc. Bài học Singapore: cần tầm nhìn dài hạn và đầu tư nhất quán cho khoa học. Họ sẵn sàng bỏ ngân sách lớn (khoảng 1% GDP) để phát triển nguồn nhân lực và cơ sở nghiên cứu, vì coi đây là “đặt cược cho tương lai” của nền kinh tế tri thức. Đồng thời, họ hiểu rõ vai trò kết nối quốc tế – biến Singapore thành “điểm đến mơ ước” của các nhà khoa học trên thế giới.
Những kinh nghiệm từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore đều cho thấy một công thức chung: thể chế thông thoáng + nhân tài + doanh nghiệp + hạ tầng tốt + hội nhập quốc tế sẽ tạo nên hệ sinh thái đổi mới sáng tạo hùng mạnh. Việt Nam hoàn toàn có thể đi theo con đường này nếu có quyết tâm chính trị và chiến lược thực thi đúng đắn.
Kết luận: Hành động quyết liệt để bứt phá
Nghị quyết 57 đã vạch rõ con đường đưa KH&CN, ĐMST và CĐS trở thành động lực phát triển đất nước. Vấn đề cốt lõi bây giờ là hành động. Từ trung ương đến địa phương, từ khu vực công đến tư, tất cả phải chung sức cụ thể hóa các nhiệm vụ NQ57 đề ra. Cần xác định rõ từng mục tiêu – ví dụ hoàn thiện hành lang pháp lý sandbox trong 1-2 năm tới; đạt 10 nhà nghiên cứu/1 vạn dân vào 2025; đưa 5G phủ sóng toàn quốc trước 2027; thu hút X chuyên gia Việt kiều về nước mỗi năm… và dốc sức thực hiện bằng được.
|
 |
Quang cảnh phiên họp thứ 2 Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (Ảnh: qdnd.vn) |
Nếu làm tốt, lợi ích mang lại sẽ to lớn. Các chuyên gia nhận định Việt Nam hoàn toàn có thể đạt tăng trưởng GDP hai con số một cách bền vững nhờ động lực từ ĐMST và kinh tế số. Thậm chí, đến năm 2030, Việt Nam có thể vươn lên nhóm quốc gia dẫn đầu khu vực về đổi mới sáng tạo, sánh vai với Singapore, Hàn Quốc. Khi KH&CN thực sự bứt phá, chúng ta sẽ giải được nhiều bài toán khó của phát triển: năng suất lao động tăng vọt, kinh tế chuyển dịch lên nấc giá trị cao, đồng thời giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, môi trường bằng giải pháp khoa học. Đó chính là con đường để hiện thực hóa khát vọng trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào 2045.
Tương lai đó nằm trong tầm tay nếu ngay từ hôm nay, chúng ta quyết liệt hành động. Đầu tư cho KH&CN, ĐMST chính là đầu tư cho tương lai. Với tinh thần dám nghĩ, dám làm và khát vọng đổi mới, Việt Nam nhất định sẽ tận dụng được “thời cơ vàng” từ cuộc cách mạng công nghệ hiện nay, vươn mình trở thành một quốc gia đổi mới sáng tạo năng động, thịnh vượng. Đột phá hay tụt hậu – câu trả lời sẽ tùy thuộc vào bước đi của chúng ta trong những năm tới, dưới ánh sáng của Nghị quyết 57. Hãy cùng chung tay gỡ điểm nghẽn, giải phóng tối đa sức sáng tạo vì một Việt Nam hùng cường./.