Chuyển đổi cơ cấu cây trồng lâm nghiệp
Quyết định số 3881/QĐ-UBND (ngày 15/10/2025) của UBND tỉnh "Về việc ban hành bổ sung một số loài cây trồng lâm nghiệp chính để trồng rừng sản xuất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh" mở ra hướng đi mới trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng lâm nghiệp, tạo nền tảng quan trọng để tăng giá trị kinh tế rừng, nâng cao độ che phủ và phát triển lâm nghiệp bền vững.

Sau bão Yagi (tháng 9/2024), tỷ lệ che phủ rừng của Quảng Ninh giảm từ mức duy trì 55% xuống còn 45,5%.
Những năm gần đây Quảng Ninh đạt nhiều kết quả tích cực trong trồng rừng. Tuy nhiên, năm 2024 bão Yagi đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho hơn 128.800ha rừng, làm tỷ lệ che phủ rừng giảm từ mức duy trì 55% xuống còn 45,5%. Tổn thất này khiến mục tiêu đến năm 2030 nâng độ che phủ lên 50% là nhiệm vụ cấp bách, đòi hỏi giải pháp căn cơ, đặc biệt trong việc lựa chọn loài cây trồng phù hợp.
Theo tính toán của các chuyên gia ngành lâm nghiệp, để đạt mục tiêu trên, tỉnh cần trồng mới bình quân 12.500ha rừng/năm. Điều này đòi hỏi đa dạng đối tượng cây trồng thay thế cho các loài mọc nhanh nhưng kém bền vững, nhất là cây keo bị thiệt hại nặng nhất sau bão với hơn 57.000ha hư hại hoàn toàn.
Bổ sung các loài cây bản địa, cây ăn quả lâu năm như nhãn, vải, xoài, mít, bưởi, ổi, na vào danh mục cây lâm nghiệp chính là quyết định đúng đắn trên cơ sở pháp lý và thực tế sản xuất. Đây là nhóm cây thân gỗ, tán rộng, có khả năng sinh trưởng tốt trên đất lâm nghiệp, đáp ứng tiêu chí về cây trồng rừng sản xuất theo quy định của Bộ NN&MT.

Lực lượng kiểm lâm tuần tra bảo vệ rừng
Quảng Ninh hiện có dư địa lớn với hơn 227.000ha đất rừng sản xuất theo quy hoạch. Việc đưa thêm các loài cây lâu năm vào trồng rừng sẽ giúp địa phương linh hoạt hơn trong xây dựng vùng sản xuất tập trung, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp điều kiện lập địa, tăng hiệu quả sử dụng đất.
Cây keo là loài cây trồng chủ lực nhiều năm qua, có chu kỳ ngắn nhưng giá trị kinh tế không cao, khoảng 10-15 triệu đồng/ha/năm. Hiệu quả sinh thái của keo đơn loài cũng không bền vững. Nhóm cây ăn quả lâu năm được bổ sung đều là loài đa tác dụng, có giá trị thương phẩm cao và thị trường ổn định. Với thời gian kiến thiết cơ bản từ 3-5 năm, các loại cây như vải, nhãn, xoài, mít, bưởi, na có thể cho thu hoạch ổn định trong 15-25 năm. Thu nhập trung bình từ cây ăn quả có thể đạt trên 200 triệu đồng/ha/năm, cao gấp nhiều lần so với trồng keo. Một số cây như vải, nhãn cho năng suất 6-7 tấn/ha/năm, bưởi và cam đạt 4-5 tấn/ha/năm. Thân gỗ của nhóm cây ăn quả lâu năm sau khai thác có thể sử dụng làm đồ mộc, vật liệu xây dựng, tăng thêm giá trị cuối cùng của cây trồng.
Việc công nhận 7 loài cây ăn quả là cây lâm nghiệp chính giúp người dân có thể trồng và hưởng lợi hợp pháp trên đất rừng sản xuất, giải quyết nhiều bất cập trước đây khi cây trồng không thuộc danh mục, tạo “cú hích” phát triển kinh tế rừng theo hướng bền vững, đa giá trị.
Bên cạnh giá trị kinh tế, các loài cây được bổ sung có đặc tính thân gỗ, tán rộng và tuổi thọ dài, mang nhiều lợi ích môi trường sinh thái, như: Tăng độ che phủ rừng bền vững nhờ bộ tán dày, thời gian sinh trưởng dài; hạn chế xói mòn, rửa trôi đất trên các sườn dốc - nơi tập trung nhiều diện tích rừng sản xuất của tỉnh; cải thiện độ phì nhiêu đất, hỗ trợ tái sinh thảm thực vật; tăng tính đa dạng sinh học, tạo môi trường sống cho các loài động, thực vật; điều hòa tiểu khí hậu, giảm tác động tiêu cực của thiên tai; tạo nhiều việc làm thường xuyên cho người dân trong khâu chăm sóc, thu hoạch, chế biến. Như vậy phát triển mô hình lâm nghiệp đa giá trị không chỉ tăng thu nhập cho người dân, mà còn góp phần bảo vệ rừng tốt hơn, tạo sinh kế bền vững, nâng cao hiệu quả sử dụng đất rừng.
Quyết định số 3881/QĐ-UBND của UBND tỉnh bổ sung 7 loài cây trồng lâm nghiệp (nhãn, vải, xoài, mít, bưởi, ổi, na) chính là bước đi quan trọng, phù hợp với chủ trương phát triển lâm nghiệp bền vững theo Nghị quyết số 19-NQ/TU (ngày 28/11/2019) của BTV Tỉnh ủy "Về phát triển lâm nghiệp bền vững tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030".

Cây ổi được bổ sung là cây lâm nghiệp chính để trồng rừng sản xuất trên địa bàn tỉnh.
Sở NN&MT được giao chủ trì thẩm định kế hoạch, yêu cầu các địa phương xây dựng vùng sản xuất tập trung từ 50ha trở lên cho thấy quyết tâm mạnh mẽ, rõ ràng của tỉnh trong việc phát triển kinh tế rừng theo hướng chuyên nghiệp, bài bản.



