Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Trịnh Việt Hùng chia sẻ về cây chè và văn hóa trà của Thái Nguyên
với ông Park Sungho, Tổng Giám đốc Samsung Electronics Việt Nam Thái Nguyên và Bắc Ninh Trước yêu cầu phát triển hiện nay, ngày 03/02/2025, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyênđã ban hành Nghị quyếtsố 11-NQ/TU về phát triển ngành chè Thái Nguyên giai đoạn 2025 - 2030(Nghị quyết số 11-NQ/TU). Điều này tiếp tục khẳng định sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân, nhằm nâng tầm giá trị cây chè và văn hóa trà.
Các đồng chí lãnh đạo tỉnh làm việc với HTX Chè Hảo Đạt (xã Tân Cương, thành phố Thái Nguyên)
về phát triển ngành chè tỉnh Thái Nguyên (ngày 12/3/2025)
Nghị quyết số 11-NQ/TUcủa Tỉnh ủy khẳng định mục tiêu phát triển ngành chè một cách bền vững, đặc biệt là trong bối cảnh xu hướng tiêu dùng hiện đại đang ngày càng yêu cầu các sản phẩm nông sản đạt chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, hữu cơ và bảo vệ môi trường. Thái Nguyên xác định sẽ chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa các sản phẩm chè, đồng thời bảo vệ hệ sinh thái và tài nguyên thiên nhiên trong quá trình sản xuất. Nghị quyết chỉ rõ hướng đi cho việc phát triển ngành chè không chỉ ở quy mô mà còn ở chất lượng. Đặc biệt là chuyển đổi từ mô hình sản xuất chè nhỏ lẻ sang các hợp tác xã, doanh nghiệp lớn để xây dựng chuỗi giá trị bền vững. Việc kết nối giữa các nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp sẽ tạo ra một hệ sinh thái chè mạnh mẽ, từ đó thúc đẩy ngành chè phát triển lâu dài.
Nghị quyết đưa ra mục tiêu cụ thểvề phát triển ngành chè trong vòng 5 năm tới, gồm việc mở rộng diện tích trồng chè lên 24.500 ha và nâng cao sản lượng chè búp tươi đạt 300.000 tấn/năm. Thái Nguyên sẽ đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ để tối ưu hóa quy trình sản xuất, từ đó nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm chè; phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 250 sản phẩm trà (chè sau chế biến) được chứng nhận đạt tiêu chuẩn OCOP 3-5 sao, trong đó có ít nhất 6 sản phẩm trà đạt tiêu chuẩn OCOP 5 sao; 100% sản phẩm trà và sản phẩm từ chè được thương mại điện tử trên các nền tảng số. Từ đó, phấn đấu tổng giá trị sản phẩm thu được từ cây chè đến năm 2030 đạt 25 nghìn tỷ đồng.
Với sự đầu tư bài bản, áp dụng công nghệ mới và xây dựng chuỗi giá trị bền vững, ngành chè Thái Nguyên
sẽ có những bước phát triển mạnh mẽtrong thời gian tới
Ngành chè Thái Nguyên sẽ không chỉ dừng lại ở việc bán chè búp, mà sẽ mở rộng sang các sản phẩm chế biến sẵn như trà túi lọc, trà đóng gói, trà thượng hạng để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Việc tạo dựng chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến cho đến tiêu thụ sẽ giúp nâng cao giá trị ngành chè và đem lại lợi nhuận cao hơn cho người trồng chè.
Cây chè đã có mặt tại Việt Nam từ lâu đời, nhưng việc trồng chè tại Thái Nguyên chỉ thực sự phát triển mạnh từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Người dân địa phương bắt đầu nhận thấy tiềm năng của đất đai và khí hậu nơi đây rất phù hợp để trồng chè. Vào thời kỳ này, các giống chè đầu tiên được trồng chủ yếu là giống chè ta, có nguồn gốc từ các tỉnh miền núi phía Bắc.
Những năm 1920 - 1930, cây chè Thái Nguyên bắt đầu được chú ý nhiều hơn nhờ chất lượng vượt trội của lá chè, tạo nên những sản phẩm trà thơm ngon. Các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là người Pháp bắt đầu thành lập các đồn điền chè và phát triển ngành công nghiệp chè tại đây. Họ mang đến những giống chè mới, kỹ thuật trồng và chế biến hiện đại hơn, giúp tăng năng suất và chất lượng sản phẩm chè.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ngành chè ở Thái Nguyên tiếp tục phát triển trong nền kinh tế tập trung bao cấp, sau đó là thời kỳ đổi mới. Chính phủ và các bộ, ngành đã có nhiều chính sách khuyến khích sản xuất chè, mở rộng diện tích trồng chè và phát triển các hợp tác xã chè. Các giống chè mới như chè cành, chè shan tuyết cũng được đưa vào trồng thử nghiệm và nhanh chóng phổ biến. Chè Thái Nguyên không chỉ là sản phẩm nông sản mà còn là một biểu tượng văn hóa, được biết đến trong và ngoài nước. Cây chè gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân Thái Nguyên, ngoài việc đem lại giá trị kinh tế to lớn cây chè còn mang những nét văn hóa truyền thống và tiềm năng phát triển du lịch cho người dân địa phương.
Đây là yếu tố quan trọng giúp ngành chè Thái Nguyên tiếp tụcphát triển mạnh mẽ trong những năm tới. Thế giới hiện đang có nhu cầu tiêu thụ chè cao cấp, đặc biệt là các sản phẩm chè hữu cơ, trà thảo mộc và trà cao cấp. Thái Nguyên có thể tận dụng xu hướng này để đẩy mạnh việc xuất khẩu chè, từ đó nâng cao giá trị thương hiệu chè của tỉnh. Đồng thời, thị trường trong nước cũng đón nhận các sản phẩm chè cao cấp, mở ra cơ hội cho người trồng chè.
Mặc dù ngành chè Thái Nguyên có tiềm năng lớn, nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức, như sự cạnh tranh gay gắt từ các địa phương khác và yêu cầu khắt khe từ các thị trường quốc tế về chất lượng sản phẩm. Biến đổi khí hậu và sâu bệnh cũng là vấn đề mà ngành chè cần phải đối mặt để bảo đảm sản lượng và chất lượng.
Với việc triển khai đồng bộ các giải pháp, ngành chè Thái Nguyên sẽ tiếp tục phát triển,
khẳng định vị thế trong và ngoài nước
Để phát triển bền vững, tỉnh đangtiếp tục đẩy mạnhứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất và chế biến chè. Chuyển đổi các vùng trồng chè sang canh tác hữu cơ và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế nhằmgiúp tăng giá trị sản phẩm chè. Đồng thời, việc xây dựng các chuỗi liên kết giữa nông dân, doanh nghiệp và hợp tác xã sẽ tạo ra giá trị bền vững cho ngành chè.
Nghị quyết số 11-NQ/TU không những thể hiện quyết tâm lớn của tỉnh trong thực hiện mục tiêu tổng doanh thu từ chè đạt 1 tỷ đô la trong thời gian tới; mà đây còn là bước đi chiến lược, thể hiện sự quyết tâm trong việc phát triển bền vữngcủangành chè. Đây cũng chính là cơ hội để nâng cao giá trị sản phẩm chè, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, khẳng định thương hiệu chè Thái Nguyên trên bản đồ thế giới. Với sự đầu tư bài bản, áp dụng công nghệ mới và xây dựng chuỗi giá trị bền vững, ngành chè Thái Nguyên sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ, không chỉ giúp người dân có đời sống ấm no mà còn góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.