Cổng thông tin điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ tịch Quốc hội
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn: Không tạo dựng môi trường pháp lý đủ tầm quốc tế, nhà đầu tư sẽ không đến

Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, việc ban hành Luật Tòa án chuyên biệt là yêu cầu bắt buộc để hình thành một thiết chế tư pháp hiện đại, minh bạch. Một môi trường pháp lý đủ tầm quốc tế chính là điều kiện tiên quyết tạo dựng niềm tin cho nhà đầu tư và quyết định sự thành công của Trung tâm Tài chính quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu tại Tổ 11. (Ảnh Lâm Hiển)

Chiều 4/12, sau khi làm việc tại Hội trường, Quốc hội thảo luận tại Tổ về Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030; Dự án Luật Toà án chuyên biệt tại Trung tâm tài chính quốc tế. Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tham gia thảo luận tại Tổ 11 gồm Đoàn ĐBQH Thành phố Cần Thơ và tỉnh Điện Biên.

Xây dựng môi trường pháp lý đủ tầm quốc tế tạo an tâm cho các nhà đầu tư

Đối với Dự án Luật Toà án chuyên biệt tại Trung tâm tài chính quốc tế, Chủ tịch Quốc hội cho rằng việc ban hành luật là hết sức cần thiết bởi khi hình thành Trung tâm Tài chính tại TP. Hồ Chí Minh thì bắt buộc phải có một thiết chế Tòa án chuyên biệt tương ứng để bảo đảm môi trường pháp lý hiện đại, minh bạch, phù hợp thông lệ quốc tế. “Đây cũng là vấn đề đã được cấp thẩm quyền trao đổi rất kỹ”, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ.

Theo Chủ tịch Quốc hội, hiện nay, để tham gia được vào sân chơi quốc tế, chúng ta phải chấp nhận chuẩn mực toàn cầu. “Nếu chúng ta không thiết kế được những cơ chế vượt trội, cơ chế đặc thù, thì không thể hình thành một Trung tâm Tài chính đúng nghĩa, cũng không thể thu hút và giữ chân nhà đầu tư. Nhà đầu tư nước ngoài trước hết bao giờ họ cũng nhìn vào hệ thống pháp luật và cơ chế giải quyết tranh chấp”, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.

Quang cảnh phiên thảo luận

Trên thực tế, năng lực ngoại ngữ cũng như hiểu biết pháp lý quốc tế của đội ngũ luật sư vẫn còn hạn chế. Vì vậy, Chủ tịch Quốc hội cho rằng, việc cho phép ký hợp đồng, cộng tác với luật sư nước ngoài trong hoạt động của tòa án chuyên biệt là yêu cầu thực tế, nhằm đảm bảo chất lượng tư pháp và niềm tin của nhà đầu tư.

Chủ tịch Quốc hội chia sẻ, riêng về cơ chế đối với luật sư nước ngoài, cấp thẩm quyền đã thảo luận rất kỹ. Các vấn đề như chế độ, tiền lương, chính sách… sẽ được Chính phủ hướng dẫn cụ thể.

Chủ tịch Quốc hội cũng nhất trí, theo thông lệ quốc tế, đối với Tòa Thương mại Quốc tế hoặc Tòa án chuyên biệt tại các Trung tâm Tài chính quốc tế, Viện kiểm sát sẽ không tham gia vào quá trình tố tụng dân sự - thương mại.

“Nếu chúng ta không mạnh dạn đổi mới, không tạo dựng môi trường pháp lý đủ tầm quốc tế, nhà đầu tư sẽ không đến. Nếu mình không làm mạnh, không thu hút được nhà đầu tư, không thu hút được dòng vốn thì Trung tâm Tài chính khó đạt hiệu quả, nhất là khi Việt Nam đi sau và cần bứt phá để vượt lên”, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng phát biểu tại Tổ 11

Chia sẻ quan điểm về nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng (Đoàn ĐBQH Thành phố Cần Thơ) cho biết, chúng ta chưa từng xây dựng luật cho một mô hình tòa án chuyên biệt và khó khăn lớn nhất nằm ở định hướng: tòa án này sẽ xét xử theo nguyên tắc của hệ thống thông luật (common law) - một hệ thống luật hoàn toàn khác với truyền thống pháp luật của Việt Nam. 

Trên thế giới có ba hệ thống pháp luật cơ bản: Hệ thống thông luật (common law); Hệ thống luật lục địa (civil law); Hệ thống luật Hồi giáo.

Theo đó, Hệ thống thông luật được hiểu là nơi án lệ giữ vai trò nền tảng. Trong thông luật, quyết định của thẩm phán, rút ra từ các tranh chấp thực tiễn, trở thành nguồn luật bắt buộc áp dụng. Án lệ của tòa cấp trên ràng buộc tòa cấp dưới. Hệ thống này phổ biến trên thế giới, điển hình tại Mỹ, Canada, Singapore…

Hệ thống luật lục địa phổ biến tại Đức, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam. Hệ thống này coi luật thành văn là căn cứ chủ yếu, còn án lệ chỉ mang tính tham khảo.

Ngoài ra còn có hệ thống luật Hồi giáo và một số hệ thống khác quy mô nhỏ hơn.  Sự khác biệt lớn nhất giữa thông luật và luật lục địa chính là vai trò của án lệ và quyền giải thích pháp luật của thẩm phán. Thông luật linh hoạt hơn: mỗi vụ việc đều khác nhau, và thẩm phán có quyền đưa ra phán quyết sát với hoàn cảnh cụ thể, từ đó hình thành án lệ. Chính vì vậy, hệ thống này rất phù hợp với các lĩnh vực thương mại, đầu tư - nơi tranh chấp đa dạng và phức tạp.

Lý giải cho việc vì sao tòa án chuyên biệt phải áp dụng thông luật, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng cho biết, trong các giao dịch quốc tế, doanh nghiệp thường tự do lựa chọn luật áp dụng. Phần lớn chọn luật Anh, luật New York, hoặc luật Thụy Sĩ. Muốn xét xử được theo những hệ thống luật này, cần có đội ngũ thẩm phán thật sự hiểu sâu, có kinh nghiệm quốc tế.

Đại biểu Nguyễn Văn Quân, Đoàn ĐBQH Thành phố Cần Thơ phát biểu

Do đó, mô hình “thẩm phán nước ngoài” được đặt ra. Thực chất, đây là người nước ngoài nhưng được bổ nhiệm làm thẩm phán Việt Nam; tương tự như doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhưng vẫn là pháp nhân Việt Nam. Các thẩm phán này thường là những chuyên gia đã nghỉ hưu, có uy tín và kinh nghiệm lâu năm trong xét xử thương mại quốc tế. Họ không làm việc thường xuyên tại Việt Nam mà được mời tham gia khi tòa án thụ lý vụ việc phù hợp với chuyên môn của họ. Thù lao không theo lương hành chính, mà trả theo vụ việc – đúng thông lệ quốc tế và tiết kiệm chi phí.

Về bản chất của toà án chuyên biệt, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng chia sẻ, thực chất là Tòa Thương mại Quốc tế, tương tự mô hình của Singapore, London hay Dubai, được thành lập gắn với Trung tâm Tài chính Quốc tế (Trung tâm Tài chính Quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh sẽ ra mắt ngày 19/12). Theo Nghị quyết 22 của Quốc hội, trung tâm này có hai cơ chế giải quyết tranh chấp: Tòa án chuyên biệt và Trung tâm Trọng tài Quốc tế. Đây chính là hai thiết chế pháp lý mà nhà đầu tư quan tâm nhất khi xem xét rủi ro và an toàn pháp lý. “Khi kêu gọi những nhà đầu tư nước ngoài đến, tất nhiên có cả nhà đầu tư của Việt Nam, điều họ thường quan tâm đầu tiên là hệ thống pháp lý có liên quan, trong đó có thiết chế giải quyết tranh chấp. Nếu chúng ta quy định không phù hợp thì các nhà đầu tư quốc tế họ sẽ không chọn cái tòa án này để giải quyết mà họ sẽ chọn các tòa án khác đang rất uy tín. Cho nên định hướng của cấp thẩm quyền đối với việc xây dựng tòa án này hay nói khác là để chúng ta ban hành luật này là cơ chế chính sách phải làm thế nào để có thể thu hút được các nhà đầu tư quốc tế. Cách thức giải quyết vụ án như thế nào,  phải có tính cạnh tranh quốc tế để người ta chọn thì mới thành công”, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng nhấn mạnh.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng cũng cho rằng, Luật này chỉ quy định các nguyên tắc cốt lõi của tố tụng theo thông luật (giống cách Anh quy định nguyên tắc, còn chi tiết sẽ do quy tắc tố tụng riêng). Các quy định chi tiết sẽ được hoàn thiện thêm trong Nghị định của Chính phủ, Quy tắc tố tụng do Tòa án Tối cao ban hành. “Tòa án Tối cao và Ủy ban Pháp luật và Tư pháp đã nghiên cứu mô hình này trong thời gian dài, tham khảo kinh nghiệm quốc tế và triển khai thẩm tra rất nhanh sau khi có hồ sơ chính thức”, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng chia sẻ.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tham gia thảo luận tại Tổ 11

Không để trục lợi chính sách khi xây dựng cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030

Cho ý kiến tại Tổ đối với Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh “năng lượng - điện là yêu cầu quan trọng nhất đối với đất nước chúng ta trong việc kêu gọi các nhà đầu tư để phát triển kinh tế xã hội”.

Theo Chủ tịch Quốc hội, thời gian qua, dù đã triển khai các dự án điện gió, điện mặt trời, thuỷ điện, nhưng nhìn chung nguồn cung vẫn chưa thể đáp ứng đủ đảm bảo cho yêu cầu đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước.

Chính vì vậy, ngày 20/8/2025 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 70 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Việc Chính phủ trình Quốc hội Dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030 cũng nhằm triển khai các giải pháp đồng bộ theo tinh thần của Nghị quyết 70. Chủ tịch Quốc hội cũng chia sẻ, Luật Điện lực (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 9, tuy nhiên vẫn chưa đủ những cơ chế đặc thù vượt trội để tháo gỡ điểm nghẽn phát triển đất nước. “Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030 không phải là tháo gỡ khó khăn mà muốn nói nhìn về tương lai để chúng ta có những giải pháp đồng bộ theo Nghị quyết 70”, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.

Chủ tịch Quốc hội cũng nhất trí các dự án điện lực thường gắn liền với an ninh, quốc phòng, do vậy cơ chế, chính sách đặc thù nhằm tạo sự thông thoáng, thúc đẩy phát triển cũng cần đi đôi với yêu cầu về an toàn, an ninh, không được để xảy ra việc trục lợi chính sách. “Nếu để xảy ra trục lợi chính sách thì phía cơ quan điều hành là Chính phủ, Bộ Công thương phải chịu trách nhiệm trực tiếp”, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ.

Trưởng Đoàn ĐBQH Thành phố Cần Thơ Nguyễn Tuấn Anh phát biểu tại Tổ 11

Góp ý tại Tổ 11, Trưởng Đoàn ĐBQH Thành phố Cần Thơ Nguyễn Tuấn Anh cũng tán đồng quan điểm việc ban hành Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 -2030 không phải để “tháo gỡ khó khăn” vì trên thực tế chưa triển khai.

Đi vào cụ thể, Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh nhận thấy các quy định tại các Chương II (Điều chỉnh quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển mạng lưới cấp điện trong quy hoạch tỉnh) và  Chương III (Đầu tư xây dựng dự án điện lực) được xây dựng với mục tiêu rút ngắn quy trình đầu tư, xây dựng các công trình điện lực nhằm đáp ứng yêu cầu đột xuất, cấp bách. Tuy nhiên, dự thảo lại chưa quy định rõ nguyên tắc, tiêu chí xác định “đột xuất, cấp bách”, chưa làm rõ phạm vi và điều kiện áp dụng, dẫn đến nguy cơ phát sinh rủi ro lớn trong thực thi, có thể bị lợi dụng để hợp thức hóa các điều chỉnh tùy tiện, mở rộng quá mức thẩm quyền hoặc áp dụng không đúng đối tượng. “Điều này tiềm ẩn các rủi ro về minh bạch, lạm quyền và lợi ích nhóm, hậu quả là lãng phí nguồn lực nhà nước, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội cũng như đời sống Nhân dân”, Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh bày tỏ lo ngại.

Đại biểu phân tích, Dự thảo Nghị quyết quy định cơ chế “điều chỉnh linh hoạt quy hoạch”, theo đó cho phép điều chỉnh quy hoạch năng lượng mà không bắt buộc áp dụng đầy đủ trình tự, thủ tục thông thường. Tuy nhiên, một số nguyên tắc, căn cứ điều chỉnh không phù hợp và chưa rõ ràng.

Cụ thể, tại khoản 2, Điều 4 quy định: “ Trường hợp việc lập, thẩm định các dự án năng lượng quan trọng, cấp bách của quốc gia có nội dung khác với quy hoạch có liên quan thì không phải thực hiện thủ tục điều chỉnh quy hoạch; sau khi dự án được phê duyệt, các quy hoạch có liên quan phải được kịp thời rà soát, điều chỉnh, cập nhật và công bố” thì cần làm rõ nội dung khác với quy hoạch là nội dung bổ sung hay lược bớt để bảo đảm chất lượng quy hoạch được phê duyệt. Trong dự thảo Nghị quyết chỉ nêu quy trình và thẩm quyền điều chỉnh quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển mạng lưới điện cấp tỉnh (Điều 5) mà không quy định trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong việc rà soát, điều chỉnh cập nhật và công bố sau khi dự án năng lượng được phê duyệt quy định tại khoản 2 để bảo đảm tính đồng bộ với quy hoạch về năng lượng.

Đại biểu Lê Minh Nam, Đoàn ĐBQH Thành phố Cần Thơ phát biểu

Tại điểm b khoản 3 quy định: “Điều chỉnh quy hoạch để kịp thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, điểm này lại không rõ là tổ chức, cá nhân nào. “Để bảo vệ lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có nhất thiết phải điều chỉnh quy hoạch điện lực, phương án phát triển mạng lưới cấp điện trong quy hoạch tỉnh không. Nếu là tất cả các tổ chức, cá nhân thì có thể điều chỉnh quy hoạch bất cứ khi nào”, Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh băn khoăn.

Cũng theo đại biểu, quy định tại Điểm c, khoản 3, Điều 4 không kèm tiêu chí định lượng và đánh giá tác động, cũng như xác định rõ trường hợp nào là “đột biến” sẽ dẫn tới nguy cơ điều chỉnh tùy tiện.

Ngoài ra, về trung và dài hạn, các quy định này có thể làm suy giảm tính ổn định, tính dự báo và tính khoa học của quy hoạch điện lực; tạo tiền đề cho việc điều chỉnh quy hoạch theo nhu cầu của từng dự án, tiềm ẩn nguy cơ phục vụ lợi ích cục bộ; đồng thời dẫn đến nguy cơ mất cân đối giữa nguồn - lưới điện, phát triển nóng, lặp lại các bài học đã xảy ra đối với điện mặt trời khi công suất phát triển quá nhanh, không đồng bộ với hạ tầng truyền tải.

Vì vậy, Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh đề nghị làm rõ căn cứ, nguyên tắc điều chỉnh quy hoạch. Cụ thể, chỉ áp dụng cơ chế miễn thủ tục điều chỉnh quy hoạch đối với trường hợp thật sự khẩn cấp, có tính chất bất khả kháng (như quy định tại Điều 14 Luật Điện lực), đồng thời quy định rõ trách nhiệm báo cáo, giải trình với Chính phủ và báo cáo Quốc hội để bảo đảm kiểm soát quyền lực và hạn chế rủi ro lạm dụng. Bổ sung tiêu chí định lượng cho từng căn cứ điều chỉnh, như mức tăng phụ tải, quy mô công suất điều chỉnh, phạm vi tác động, điều kiện vận hành hệ thống… nhằm bảo đảm tính minh bạch và khả năng kiểm soát. Quy định bắt buộc phải có đánh giá tác động hệ thống điện và ý kiến tham vấn độc lập khi thực hiện điều chỉnh quy hoạch. 


Dương Dung / quochoi.vn

Các tin khác

Tin đọc nhiều