Cổng thông tin điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Thái Nguyên
Thái Nguyên
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Chè Thái và khát vọng vươn xa

Trên những triền đồi xanh bát ngát ở khắp các vùng quê như: Tân Cương, La Bằng, Trại Cài, Quân Chu, Phúc Thuận… cây chè từ bao đời vẫn lặng lẽ đơm hương, góp vị ngọt cho đời, giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh. Những năm gần đây, nhờ đổi mới về sản xuất, chế biến, búp chè Thái Nguyên càng vươn mình mạnh mẽ, mang theo khát vọng tiến ra thế giới, chinh phục những thị trường khó tính.
Bà con xóm Cầu Đá, xã La Bằng thu hái chè.
Người dân xóm Cầu Đá (xã La Bằng) thu hái chè.

Hòa nhịp theo dòng chảy sản xuất xanh

Thái Nguyên hiện có trên 24 nghìn héc-ta chè, sản lượng mỗi năm khoảng 280 nghìn tấn, chiếm trên 18% diện tích và trên 24% sản lượng chè búp tươi cả nước. Giá trị mà cây chè mang lại đạt khoảng 13,6 nghìn tỷ đồng mỗi năm. Giá trị sản phẩm bình quân thu được ở một số vùng chè trọng điểm đạt 400 triệu/ha/năm. Ngoài ra, các vùng khác trong tỉnh có giá bán thấp hơn đạt từ 200-300 triệu/ha/năm.

Có thể thấy, sản xuất chè cho hiệu quả cao hơn một số cây trồng khác, đóng góp tăng giá trị sản phẩm thu được trên 1 héc ta đất trồng trọt của tỉnh. Tuy vậy, thị trường tiêu thụ chủ yếu của chè Thái Nguyên vẫn là tiêu thụ nội địa.

Để nâng cao giá trị xuất khẩu chè, trong bối cảnh thị trường quốc tế ngày càng khắt khe, xu thế toàn cầu hóa, nhu cầu sử dụng đồ uống tự nhiên, sản phẩm hữu cơ tăng mạnh, thì việc đầu tiên là cần xây dựng các vùng nguyên liệu đạt chuẩn quốc tế.

Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) trên địa bàn tỉnh đã hoà vào dòng chảy sản xuất xanh, bằng cách chuyển từ sản xuất truyền thống sang sản xuất hữu cơ.

Là một trong những đơn vị tiên phong sản xuất chè hữu cơ của tỉnh, HTX chè an toàn Khe Cốc, thuộc xã Vô Tranh đến nay đã xây dựng được vùng nguyên liệu gần 100ha, trong đó có khoảng 20ha đã được chứng nhận hữu cơ. Ông Tô Văn Khiêm, Giám đốc HTX, cho biết: Chuyển sang canh tác hữu cơ không phải chỉ là thay đổi kỹ thuật, mà là thay đổi toàn bộ tư duy sản xuất, phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định không dùng thuốc và phân vô cơ trước khi được cấp chứng nhận.

Cùng với HTX chè an toàn Khe Cốc, Hợp tác xã Tân Cương Xanh, Hợp tác xã Phúc Trìu, Công ty chè Thái Minh… là những đơn vị tiên phong áp dụng quy trình chăm sóc hữu cơ, quản lý vùng nguyên liệu bằng nhật ký điện tử, kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật bằng thiết bị phân tích nhanh. Từ thí điểm này, tỉnh xác định đây là hướng đi chiến lược, vừa bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, vừa gia tăng giá trị cho sản phẩm “Đệ nhất danh trà”.

Theo đó, tỉnh chú trọng mạnh mẽ vào mở rộng diện tích chè hữu cơ, chè VietGAP, khuyến khích nông dân chuyển đổi phương thức canh tác theo hướng giảm hóa chất, bảo vệ hệ sinh thái và nâng cao chất lượng búp chè.

Mục tiêu đề ra là tăng tỉ lệ diện tích sản xuất tập trung theo tiêu chuẩn VietGAP và hữu cơ, coi đây là con đường bền vững để giữ thương hiệu chè Thái Nguyên trên thị trường trong nước và xuất khẩu.

  Đóng gói chè tôm nõn ở HTX chè Hảo Đạt.
Đóng gói chè tôm nõn ở HTX chè Hảo Đạt.

Theo thống kê của ngành Nông nghiệp và Môi trường, đến nay diện tích chè được cấp chứng nhận hữu cơ của toàn tỉnh là trên 80ha. Đây là bước chuyển đổi lớn về tư duy sản xuất, không chỉ nâng cao chất lượng búp chè mà còn tạo ra uy tín cần thiết để sản phẩm có thể đi vào các thị trường yêu cầu tiêu chuẩn cao như EU, Nhật Bản, Mỹ hay Trung Đông.

Đầu tư chế biến sâu

Hiện nay, trên thế giới, giá trị của ngành chè đang dịch chuyển mạnh sang phân khúc sản phẩm tiện dụng, giàu hàm lượng công nghệ và có tính ứng dụng rộng. Trà túi lọc, đồ uống đóng chai, matcha dùng trong ẩm thực và mỹ phẩm, tinh chất EGCG… đang là xu thế tiêu dùng phổ biến tại châu Âu, Bắc Mỹ và Đông Á.

Để theo kịp xu thế ấy, Thái Nguyên xác định chế biến sâu là khâu then chốt để nâng cao giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường nước ngoài. Theo đó, tỉnh đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ chế biến chè. Trong đó, Nghị quyết số 11-NQ/TU giai đoạn 2025–2030 nêu rõ ưu tiên đầu tư dây chuyền chế biến hiện đại, hệ thống truy xuất nguồn gốc và xúc tiến xuất khẩu.

HĐND tỉnh cũng có các chính sách hỗ trợ phát triển ngành chè, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư vào chế biến sâu. Những chính sách này tạo “cú hích” để cả vùng chè chuyển từ bán nguyên liệu thô sang chế biến sâu, gia tăng nguồn thu cho người trồng và các cơ sở chế biến.

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã và cơ sở chế biến trên địa bàn đã chuyển hướng đầu tư dây chuyền, ứng dụng công nghệ sấy, nghiền mịn và đóng gói hiện đại để tạo ra các sản phẩm tiện dụng, có giá trị gia tăng như matcha, tinh chất, chiết xuất, trà đóng gói cao cấp...

HTX Tâm Trà Việt và một số thương hiệu như Tân Cương Xanh đã phát triển sản phẩm bột trà xanh, ứng dụng quy trình tuyển chọn lá non, sấy, nghiền mịn và đóng gói đạt tiêu chuẩn VietGAP/OCOP để phục vụ thị trường pha chế và thực phẩm. Những đơn vị này vừa bảo tồn bí kíp sao truyền thống vừa kết hợp công nghệ nghiền mịn để ra sản phẩm matcha mang hương vị đặc trưng của Thái Nguyên.

    Sản phẩm kẹo lạc trà xanh là một trong rất nhiều sản phẩm chế biến từ chè của HTX Tân Cương Xanh.
Sản phẩm kẹo lạc trà xanh là một trong nhiều sản phẩm chế biến từ chè của HTX Tân Cương Xanh.

Một số nhà máy quy mô lớn đã đạt công suất đủ để cung cấp cho thị trường nội địa và xuất khẩu. Bên cạnh đó, nhiều HTX nhỏ cũng phát triển các dòng sản phẩm OCOP, VietGAP, matcha và các chế phẩm phục vụ pha chế, thực phẩm. Đây là các sản phẩm chế biến có hàm lượng kỹ thuật cao, bước đầu đã ổn định về chất lượng và dễ tiêu thụ.

Khi đã có sản phẩm tốt, thương hiệu chính là “tấm hộ chiếu” để sản phẩm bước vào thị trường toàn cầu. Thái Nguyên đã và đang làm khá tốt nhất công tác xây dựng, quản lý và bảo hộ sở hữu trí tuệ. Những năm qua, tỉnh đã triển khai đồng bộ từ xây dựng chỉ dẫn địa lý, phát triển nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, cho đến việc hỗ trợ quảng bá, xúc tiến thương mại và phát triển du lịch gắn với văn hóa trà.

Trong đó, dấu ấn nổi bật nhất chính là Chỉ dẫn địa lý Tân Cương. Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý này đã được Liên minh châu Âu (EU) bảo hộ theo Hiệp định EVFTA, trở thành một trong số ít nông sản Việt Nam bước chân vào thị trường khó tính nhất. Cùng với đó, Thái Nguyên hiện có 10 nhãn hiệu tập thể đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng.

Ngoài ra còn có 2 nhãn hiệu chứng nhận là Chè Phú Lương và Chè Võ Nhai. Đặc biệt, nhãn hiệu tập thể “Chè Thái Nguyên” đã được bảo hộ tại 6 quốc gia và vùng lãnh thổ. Song song với bảo hộ thương hiệu, Thái Nguyên còn chú trọng quảng bá và xúc tiến tiêu thụ theo hướng hiện đại.

Hơn 154 sản phẩm chè đạt tiêu chuẩn OCOP 3-5 sao đã được kết nối lên các sàn thương mại điện tử lớn như C-ThaiNguyen, Vỏ Sò, Postmart… Việc đưa chè lên không gian số không chỉ mở ra kênh tiêu thụ mới mà còn là phương thức quảng bá hiệu quả, giúp thương hiệu chè Thái Nguyên tiếp cận rộng rãi hơn với khách hàng trong và ngoài nước.

Dù hiện tại hoạt động xuất khẩu trực tiếp vẫn còn khiêm tốn so với tiềm năng, mỗi năm đạt trên 1.040 tấn, nhưng với sự chủ động của các doanh nghiệp, sản phẩm đã được bảo hộ sở hữu trí tuệ, kết hợp với sản xuất xanh, chế biến sâu và xúc tiến thương mại - du lịch, tin chắc, trong thời gian tới, sẽ tạo nên sức bật mạnh mẽ để chè Thái Nguyên bước ra thế giới bằng bản sắc riêng.


Hải Hằng / baothainguyen.vn
Bình luận

Các tin khác

Tin đọc nhiều