Cổng thông tin điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Tuyên Quang
Tuyên Quang
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Nghị quyết 57 – Đồng hành để nông nghiệp miền núi bứt phá

Tại Tuyên Quang, nông nghiệp giữ vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm sinh kế cho phần lớn người dân. Nhưng dù đạt nhiều kết quả tích cực, ngành vẫn đang đối mặt không ít rào cản như sản xuất manh mún, ứng dụng công nghệ còn hạn chế, thị trường tiêu thụ thiếu ổn định và nguồn nhân lực số mỏng. Những “nút thắt” này đang kìm hãm dư địa phát triển của nông nghiệp địa phương. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị được xem là định hướng quan trọng, mở ra hướng tiếp cận mới: lấy đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ và chuyển đổi số làm nền tảng để tái cấu trúc, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của nông nghiệp Tuyên Quang trong giai đoạn phát triển mới.

Vai trò nông nghiêp trong nền kinh tế

Trong bức tranh phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Tuyên Quang, nông nghiệp vẫn giữ vai trò trụ cột, là “bệ đỡ” vững chắc giúp địa phương ổn định kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và tạo nền tảng cho phát triển bền vững. Những năm qua, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng chuyên sâu, gắn với nhu cầu thị trường, khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế sẵn có. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản bình quân 5 năm qua đạt mức khá; an ninh lương thực luôn được đảm bảo, đời sống nông dân không ngừng cải thiện.

Tỉnh duy trì diện tích gieo trồng hằng năm trên 207.000 ha, sản lượng lương thực đạt hơn 780.000 tấn. Nhiều mô hình cây trồng hiệu quả được nhân rộng, đặc biệt là vùng cam Sành được đầu tư nâng cao chất lượng với năng suất bình quân đạt 115 tạ/ha, tăng 10% so với trước. Toàn tỉnh có trên 5.000 ha cây trồng được sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ, Rainforest, GlobalGAP; các sản phẩm chủ lực như chè Shan tuyết, bưởi, cam, dược liệu, mật ong... đang hình thành chuỗi giá trị hướng tới xuất khẩu. Chăn nuôi phát triển theo hướng tập trung, quy mô trang trại, gia trại, có 51 cơ sở đạt chứng nhận VietGAP và 14 cơ sở đạt chuẩn an toàn dịch bệnh. Nhiều sản phẩm đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý như thịt bò Hà Giang, cá Bỗng Hà Giang, đồng thời hoàn thiện hồ sơ đăng ký chỉ dẫn địa lý cho thịt trâu Chiêm Hóa. Chương trình bảo hiểm trâu, bò được triển khai sâu rộng, góp phần giảm thiểu rủi ro cho người chăn nuôi.

Ngành thủy sản phát triển theo hướng thâm canh, an toàn sinh học, tổng sản lượng năm 2025 đạt trên 15.000 tấn, trong đó sản lượng cá đặc sản đạt gần 2.900 tấn. Lĩnh vực lâm nghiệp tiếp tục khẳng định vị thế dẫn đầu cả nước với 89.094 ha rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững FSC, tỷ lệ che phủ rừng đạt 62,2%. Tuyên Quang cũng hoàn thành “Đề án xây dựng khu lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao”, khẳng định định hướng phát triển xanh, tuần hoàn, bền vững.

Cùng với đó, tỉnh đã ban hành đồng bộ các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất trong khuôn khổ các Chương trình mục tiêu quốc gia với 2.494 dự án được phê duyệt, tổng kinh phí giải ngân hơn 940 tỷ đồng. Các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp góp phần trực tiếp giúp người dân nâng cao thu nhập, giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 4,86%/năm.

Công tác quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm nông, lâm, thủy sản được tăng cường; toàn tỉnh duy trì 50 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn, 16 cơ sở chế biến đạt chuẩn ISO, HACCP, Halal. Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) trở thành điểm sáng với 457 sản phẩm đạt từ 3 sao trở lên, trong đó có 2 sản phẩm 5 sao cấp quốc gia.

Với hướng đi đúng đắn, đồng bộ và bền vững, nông nghiệp Tuyên Quang đang tiếp tục khẳng định vai trò là trụ đỡ vững vàng của nền kinh tế, góp phần quan trọng vào mục tiêu xây dựng tỉnh phát triển xanh, toàn diện và bền vững.

Người dân thôn Séo Lủng B, xã Sà Phìn trồng bắp cải hàng hóa mang lại thu nhập cao.

Thu hoạch chè Shan tuyết cổ thụ.

Những "điểm nghẽn" cản trở nông nghiệp phát triển

Sau đợt mưa lũ lịch sử tháng 10 vừa qua, nhiều vùng trồng cây ăn quả lâu năm trên địa bàn tỉnh bị thiệt hại nặng nề, nhất là khu vực ven sông Gâm. Tại xã Xuân Vân, nước lũ dâng cao khiến hàng chục héc-ta bưởi ở thôn Soi Đát bị ngập úng, trôi gốc, gãy cành, bùn đất phủ kín vườn. Ông Nguyễn Văn Thường, người có hơn 10 năm gắn bó với cây bưởi Soi Hà, chia sẻ: “Nhà tôi mất gần 4 héc-ta bưởi và toàn bộ vườn ươm giống. Mỗi cây đang chuẩn bị cho thu hoạch, giờ coi như mất trắng. Làm nông nghiệp vất vả lắm, vốn đầu tư lớn mà chỉ cần một trận lũ là trắng tay".

Không chỉ thiên tại, đợt dịch tả lợn châu Phi năm nay cũng khiến nhiều hộ chăn nuôi điêu đứng, nhiều trang trại "trắng chuồng" khiến nông dân trắng tay. Dịch bệnh đã xảy ra ở đàn lợn của trên 11.500 hộ dân, tại 1.667 thôn và thuộc 116 xã, phường, với 112.500 con lợn mắc bệnh buộc tiêu hủy. Đặc biệt trong thời điểm đầu tháng 8, dịch bùng phát rất mạnh, đe dọa nghiêm trọng đến đàn lợn khỏe mạnh trên địa bàn.

Những minh chứng trên cho thấy, nông nghiệp dù là giữ vị thế chủ lực nhưng lại là lĩnh vực chịu rủi ro lớn, đặc biệt trong điều kiện biến đổi khí hậu, dịch bệnh làm ảnh hưởng chuỗi sản xuất và thị trường tiêu thụ dễ biến động. Cùng với đó, thách thức lớn khác hiện nay là liên kết chuỗi giá trị còn lỏng lẻo, thiếu sự gắn kết chặt chẽ giữa các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ. Nhiều mô hình hợp tác xã – doanh nghiệp – nông dân mới dừng ở mức hình thức, chưa hình thành được chuỗi giá trị khép kín và ổn định. Khi giá cả biến động hoặc thiên tai, dịch bệnh xảy ra, các hợp đồng liên kết dễ bị đứt gãy, khiến người sản xuất chịu nhiều rủi ro. Điều này cũng gây khó khăn cho việc áp dụng đồng bộ công nghệ cao, kiểm soát chất lượng, truy xuất nguồn gốc, xây dựng thương hiệu và mở rộng thị trường, nhất là với xuất khẩu. 

Hạn chế trong xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại cũng là điểm yếu. Dù nhiều sản phẩm đã có chứng nhận OCOP, VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ…, nhưng hoạt động quảng bá, kết nối tiêu thụ còn manh mún, thiếu chiến lược dài hạn; sản phẩm chưa đồng đều về chất lượng, mẫu mã, bao bì, khiến việc xây dựng thương hiệu và cạnh tranh ở thị trường cao cấp, quốc tế gặp nhiều khó khăn. Ứng dụng thương mại điện tử, kinh tế số trong tiêu thụ nông sản còn hạn chế, chưa bắt kịp xu thế hội nhập, chủ yếu vấn là các doanh nghiệp, HTX, hộ sản xuất tự quảng bá, bán sản phẩm trên nền tảng trực tuyến. 

Cùng với đó, toàn tỉnh hiện có rất ít doanh nghiệp chế biến nông sản, chủ yếu dừng ở khâu sơ chế, làm giảm đáng kể giá trị sản phẩm. Hệ thống kho bảo quản, logistics phục vụ nông sản sau thu hoạch còn thiếu, quy mô nhỏ lẻ. Phần lớn nông sản vẫn tiêu thụ ở dạng thô, phụ thuộc vào thương lái, dễ bị ép giá khi thị trường biến động, khiến người nông dân chịu thiệt. Nguồn nhân lực và nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình chuyển đổi sang nông nghiệp công nghệ cao. Nhiều hộ nông dân và hợp tác xã chưa đủ khả năng tiếp cận vốn vay để đầu tư cơ sở hạ tầng, thiết bị hiện đại như nhà màng, hệ thống tưới tự động, kho lạnh hay dây chuyền chế biến. Một bộ phận nông dân còn thiếu kỹ năng sản xuất theo tiêu chuẩn, chậm tiếp cận chuyển đổi số. Trong khi đó, mạng lưới nghiên cứu, chuyển giao khoa học – công nghệ còn mỏng, thiếu trung tâm hỗ trợ kỹ thuật tại chỗ, dẫn đến việc áp dụng công nghệ tiên tiến chưa rộng khắp.

Hàng loạt những khó khăn trên đang đặt "bài toán" khó buộc các cấp, ngành phải cùng chung tay, vào cuộc tìm lời giải để nông nghiệp phát triển ổn định, bền vững, vượt qua thách thức, giữ vững vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế tỉnh.

Thiên tai, dịch bệnh khiến nông nghiệp gặp nhiều rủi ro.

Nghị quyết số 57 - "Kim chỉ nam" cho nông nghiệp bứt phá

Một trong những "cú hích" chiến lược để "Tam nông" thực sự chuyển mình trong kỷ nguyên mới là Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Với ngành Nông nghiệp, "cú hích" này tạo ra chuỗi giá trị tuần hoàn dựa trên nền tảng công nghệ, số hóa, từ gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm.

Bà Chu Thị Ngọc Diệp, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Tuyên Quang nhấn mạnh:  “Nghị quyết 57 không chỉ là chính sách cho nghiên cứu khoa học mà còn là lời hiệu triệu cho mỗi hộ nông dân, mỗi hợp tác xã phải thay đổi từ tư duy đến cách làm, từ sản xuất truyền thống sang hiện đại, từ manh mún sang liên kết chuỗi giá trị. Chúng tôi đang triển khai nghị quyết đến các cập hội và nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình từ hội viên".

Ông Thượng Thái Cát, Giám đốc HTX Cát Lý, xã Thuận Hòa chia sẻ: “Với nghị quyết này, HTX chúng tôi được khuyến khích mạnh mẽ đầu tư cho công nghệ, dữ liệu, số hóa chuỗi cung ứng. Nguồn lực từ nghị quyết giúp chúng tôi có thêm các hợp tác, nghiên cứu, xúc tiến mô hình chế biến thông minh, truy xuất nguồn gốc, nâng tầm sản phẩm bò vàng Cao nguyên đá".

Cơ giới hóa sản xuất, giúp người dân giảm sức lao động, tổn thất sau thu hoạch.

Nghị quyết số 57 sẽ đi vào cuộc sống từ việc ứng dụng dụng và chuyển giao các tiến bộ khoa học – công nghệ như công nghệ sinh học, vi sinh, bảo quản sau chế biến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp; hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ, áp dụng sản xuất thông minh; quảng bá, tiêu thụ nông sản qua “chợ số”, “nông thôn số”, mã QR, blockchain và thương mại điện tử; mở rộng mô hình nông nghiệp số, ứng dụng IoT trong tưới tiêu, giám sát dịch bệnh... Nghị quyết 57 có lộ trình hành động rõ ràng, có chỉ tiêu cụ thể, có cam kết về nguồn lực và cách tiếp cận công nghệ, đổi mới sáng tạo, số hóa. 

Câu chuyện chuyển đổi số nông nghiệp với một tỉnh miền núi, biên giới như Tuyên Quang dẫu vẫn còn hành trình dài, nhưng đã bắt đầu gieo gốc rễ vững bền khi có khoa học là nền tảng, có chính quyền năng động, có doanh nghiệp, HTX tiên phong và có những giám đốc nông dân 4.0 đầy nhiệt huyết. Đây là cơ hội để tỉnh Tuyên Quang tạo ra những sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, uy tín, hướng tới xuất khẩu, ngành Nông nghiệp sẽ từng bước chuyển từ mô hình “ăn chắc mặc bền” sang “sáng tạo – bứt phá”. 

Biện Luân


www.tuyenquang.gov.vn
Bình luận

Các tin khác

Tin đọc nhiều