Xây vùng nguyên liệu gắn quy hoạch cây chủ lực cho từng vùng
Sau 4 năm triển khai thí điểm, các vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn đã hình thành rõ nét hơn về quy mô, chất lượng và mức độ liên kết.
Tổng diện tích vùng nguyên liệu tại 11 tỉnh thuộc dự án đạt gần 170.000 ha, tăng khoảng 20% so với trước khi triển khai đề án. Trong số này, hơn 71% diện tích có liên kết tiêu thụ với doanh nghiệp, thay đổi căn bản cách tổ chức sản xuất theo hướng hàng hóa và thị trường.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam phát biểu chỉ đạo tại hội nghị. Ảnh: Bảo Thắng.
Kết quả này, theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, cho thấy một điểm chung. Vùng nguyên liệu chỉ phát huy hiệu quả khi được gắn chặt với cây trồng chủ lực và lợi thế sinh thái của từng vùng.
Tại Trung du và miền núi phía Bắc, cây ăn quả được tổ chức theo cụm HTX - doanh nghiệp, hình thành các vùng xoài, nhãn, chuối có mã số vùng trồng, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu chính ngạch. Ở Tây Nguyên, cà phê được xác định là trục chính, đi kèm đầu tư kho bảo quản, sân phơi, đường nội đồng, giúp giảm tổn thất sau thu hoạch và nâng công suất chế biến.
Ở ĐBSCL, lúa gạo và cây ăn quả tiếp tục là nền tảng, với hệ thống trạm bơm, cống điều tiết và giao thông nội vùng được đầu tư đồng bộ để giảm chi phí logistics.
Tại hội nghị tổng kết giai đoạn thí điểm sáng 19/12, Cục ghi nhận: chi phí vận chuyển nông sản tại nhiều vùng giảm 20-30%, thời gian vận chuyển rút ngắn còn một nửa so với trước. Năng suất cây trồng tăng trung bình 10-15%, giá trị sản xuất trên mỗi hecta tăng khoảng 20-25%.
Thu nhập của nông dân tại các vùng dự án tăng đều 5-10% mỗi năm, phản ánh hiệu quả kinh tế trực tiếp của việc đầu tư đúng vào cây trồng chủ lực và hạ tầng phục vụ vùng nguyên liệu
Một điểm thay đổi quan trọng nữa, là vai trò của HTX. Thay vì chỉ là đơn vị sản xuất, nhiều HTX đã trở thành trung tâm điều phối vùng nguyên liệu, quản lý chất lượng, tổ chức sơ chế và kết nối doanh nghiệp. Tỷ lệ nông sản tiêu thụ qua HTX tăng từ 35% lên trên 57%. Hơn 90 chuỗi liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ được hình thành, trong đó nhiều chuỗi có hợp đồng bao tiêu dài hạn, giúp ổn định đầu ra và giảm rủi ro thị trường.
Đầu tư hạ tầng từ nguồn vốn dự án tạo ra nhiều công trình mang tính “đòn bẩy”, như đường vào vùng trồng gắn với nhà máy chế biến, kho bảo quản gắn với vùng cà phê, hay trạm bơm phục vụ cánh đồng lúa tập trung, tạo hiệu quả cao hơn hẳn so với đầu tư dàn trải.
Mỗi đồng vốn ngân sách Trung ương huy động được gần 6 đồng vốn đối ứng từ địa phương, doanh nghiệp, HTX và người dân. Cơ chế “vốn mồi” này cho thấy hiệu quả của việc Nhà nước dẫn dắt, còn khu vực tư nhân và cộng đồng cùng tham gia đầu tư vùng nguyên liệu. Đây cũng là cơ sở để mở rộng mô hình theo hướng đối tác công tư giai đoạn 2026-2030.

Hội nghị được kết nối trực tuyến tới 11 tỉnh, thành thuộc vùng dự án. Ảnh: Bảo Thắng.
Ông Nguyễn Thành Công, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La cho rằng, điểm mạnh lớn nhất của đề án là đầu tư hạ tầng phục vụ trực tiếp sản xuất. Các tuyến giao thông nội vùng giúp cơ giới hóa tốt hơn, đặc biệt là hơn 6 km kết nối từ xã Chiềng Sung ra Khu công nghiệp Mai Sơn, tạo điều kiện tổ chức lại sản xuất và nâng giá trị nông sản cho địa phương.
Cùng với đó, tổ chức chuỗi sản xuất theo chuẩn giúp nguyên liệu đầu vào đáp ứng yêu cầu xuất khẩu, đóng góp vào tăng trưởng nông nghiệp của tỉnh năm 2025, trong đó cà phê là một điểm sáng.
Tuy nhiên, theo lãnh đạo Sơn La, quy mô vùng thí điểm hiện vẫn chưa lớn, cơ cấu cây trồng còn hạn chế và chu trình sản xuất chưa thực sự khép kín. Điều này khiến dư địa gia tăng giá trị chưa được khai thác hết. Từ thực tế đó, Sơn La đề xuất nhân rộng mô hình trên phạm vi cả nước, đặc biệt tại các địa phương đã có kế hoạch rõ về cây trồng chủ lực, đồng thời đầu tư mạnh hơn cho hạ tầng, nhất là giao thông nội đồng và kết nối với nhà máy chế biến.
Kết luận hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam nhìn nhận, các địa phương đều đã quy hoạch vùng sản xuất, nhưng khoảng trống lớn nhất là chưa xác định rõ trồng cây gì cho từng địa phương. Theo ông, đề án vùng nguyên liệu giải quyết được vấn đề này, giúp địa phương và doanh nghiệp xác định các loại cây chủ lực để hợp tác đầu tư, từ đó hoàn thành “sứ mệnh lịch sử” của giai đoạn thí điểm.
Trên cơ sở đó, lãnh đạo Bộ đề nghị địa phương triển khai đồng bộ mã số vùng trồng đối với các cây chủ lực đã được xác định. Cùng với đó, tăng cường ứng dụng công nghệ, thực hành nông nghiệp tốt (GAP) và truy xuất nguồn gốc, coi đây là điều kiện bắt buộc để tham gia chuỗi giá trị và thị trường xuất khẩu.
Một nội dung khác được nhấn mạnh là bảo hiểm cây trồng, vật nuôi, nhằm giảm rủi ro cho nông dân, bảo đảm an sinh và hướng tới tăng trưởng xanh. Theo Thứ trưởng, tăng trưởng xanh không chỉ là giảm phát thải, mà là nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân nông thôn.
Về định hướng dài hạn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ xây dựng đề án vùng nguyên liệu ở quy mô toàn quốc. Những tỉnh đã có danh sách cây chủ lực sẽ tiếp tục mở rộng và hình thành vùng nguyên liệu tập trung. Trên nền tảng quy hoạch cây trồng chủ lực cấp quốc gia, việc cụ thể hóa xuống cấp tỉnh sẽ giúp giám sát chặt hơn, đồng thời tạo cam kết dài hạn với doanh nghiệp về tính ổn định của vùng nguyên liệu.
Nhà nước sẽ tập trung đầu tư “phần cứng” như thủy lợi và hạ tầng thiết yếu, trong khi doanh nghiệp được khuyến khích đầu tư “phần mềm” gồm thương mại, logistics và quản trị chuỗi. Cách phân vai này nhằm bảo đảm giá trị và thương hiệu cho hàng hóa xuất khẩu, đồng thời tạo nền tảng bền vững cho nhân rộng mô hình vùng nguyên liệu gắn với cây trồng chủ lực trong giai đoạn tới.
Kế hoạch đến năm 2030, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt mục tiêu mở rộng 5 vùng nguyên liệu trọng điểm lên hơn 1,8 triệu ha, với yêu cầu 100% diện tích có hợp đồng liên kết tiêu thụ. Trọng tâm là phát triển vùng nguyên liệu gắn với cây trồng chủ lực của từng vùng, tránh dàn trải theo địa giới hành chính, đồng thời đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng khắt khe của thị trường trong nước và xuất khẩu. |



