Lào Cai trong tiến trình chuyển đổi số: Nhìn thẳng thực trạng, chỉ rõ điểm nghẽn và kiến tạo những định hướng nền tảng
Chuyển đổi số không chỉ là yêu cầu của thời đại mà đã trở thành động lực trực tiếp thúc đẩy đổi mới mô hình quản trị và tăng trưởng kinh tế của mỗi địa phương. Với Lào Cai, tiến trình này đã có những bước chuyển nhất định. Tuy nhiên, quá trình phát triển cũng đòi hỏi tỉnh phải định vị lại chiến lược số theo hướng nền tảng, thực chất và dài hạn hơn.
Nhìn tổng thể, việc thực hiện chuyển đổi số tại Lào Cai thời gian qua đã đạt một số kết quả tích cực, nhất là trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến và xây dựng các tiêu chí nền tảng ở cấp cơ sở. Tỷ lệ hồ sơ thủ tục hành chính xử lý hoàn toàn trực tuyến đã đạt mức 80%; tỷ lệ nộp hồ sơ trực tuyến đạt 88,34%; trả kết quả trực tuyến đạt 98%, cho thấy xu hướng dịch chuyển mạnh từ phương thức truyền thống sang phương thức số. Đặc biệt, việc khai thác và tái sử dụng dữ liệu số hóa đạt 84,23%, chứng tỏ dữ liệu đã bắt đầu trở thành nguồn lực thực tế trong hoạt động quản lý. 100% xã, phường đã hoàn thành 16 tiêu chí giai đoạn 1 theo Kế hoạch số 02-KH/BCĐ của Ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW; phần lớn đơn vị cấp xã hoàn thành từ 80% tiêu chí giai đoạn 2, và có 15 xã/phường đạt vùng xanh theo yêu cầu của Trung ương. Những con số này phản ánh nỗ lực rõ ràng của bộ máy trong việc chuẩn hóa, số hóa và tạo lập nền tảng cho chính quyền số hai cấp.
Bên cạnh đó, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được xác định là động lực tăng trưởng mới, gắn với mục tiêu GRDP năm 2025 đạt 8,5% và phấn đấu duy trì mức tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026 - 2030. Các mô hình ứng dụng công nghệ vào nông nghiệp, công nghiệp chế biến, thương mại điện tử xuyên biên giới, quản trị cửa khẩu thông minh… đã được khởi động, cho thấy sự chuyển dịch từ mô hình sản xuất truyền thống sang mô hình giá trị gia tăng dựa trên công nghệ.
Tuy vậy, thực tế cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Tiến độ thực hiện một số nhiệm vụ còn chậm; hạ tầng số chưa đồng bộ; “vùng lõm sóng”, “vùng lõm điện” vẫn còn ở nhiều khu vực, ảnh hưởng đến quyền tiếp cận dịch vụ số của người dân. Hạ tầng nghiên cứu khoa học công nghệ còn nhỏ lẻ; hệ sinh thái đổi mới sáng tạo chưa hình thành đầy đủ; nhân lực số thiếu hụt, nhất là nhân lực chất lượng cao và lực lượng vận hành trực tiếp ở cơ sở. Tư duy hành chính vẫn còn hiện hữu ở một số nơi, làm chậm quá trình chuyển đổi sang tư duy quản trị số. Công tác kiểm tra, giám sát chưa đủ mạnh để tạo áp lực thúc đẩy tiến độ; nhiều cơ chế chính sách chưa bắt kịp tốc độ yêu cầu của thực tiễn chuyển đổi số
Điểm nghẽn lớn nhất lại nằm ở tư duy vận hành: chưa hình thành đầy đủ văn hóa làm việc dựa trên dữ liệu, trong khi dữ liệu lại được xác định là tài sản chiến lược của tỉnh. Nhiều hệ thống đã hình thành nhưng chưa được sử dụng thường xuyên; dữ liệu vẫn phân tán theo ngành, thiếu chuẩn hóa, thiếu liên thông; chưa đáp ứng được yêu cầu “một lần khai báo - nhiều lần sử dụng” để giảm chi phí giao dịch và nâng cao chất lượng dịch vụ công. Một số nơi còn thiên về hình thức, hoàn thành tiêu chí nhưng chưa tạo chuyển biến thực chất trong công việc hằng ngày.
Từ những thực tế này, các định hướng lớn mà tỉnh cần tập trung là những định hướng mang tính nền tảng, có khả năng tái cấu trúc cách thức quản trị công, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số theo chiều sâu. Trong đó, nghiên cứu, quan tâm thực hiện một số định hướng lớn sau:
Trước hết, đặt kỷ cương lên hàng đầu là yêu cầu có tính nền tảng, thể hiện tinh thần “Kỷ cương đi trước - Nguồn lực đi cùng - Kết quả là thước đo”. Đây không chỉ là khẩu hiệu mà là phương thức tổ chức vận hành của cả hệ thống. Chuyển đổi số không thể thành công khi thiếu kỷ luật dữ liệu, kỷ luật quy trình và kỷ luật trong thực thi - ba tiêu chí cấu thành “kỷ cương số”. Khi người đứng đầu thực sự chịu trách nhiệm trực tiếp về kết quả, và kết quả được đo đếm bằng các chỉ số thời gian thực thay vì báo cáo thủ công, bộ máy sẽ vận hành thông suốt, minh bạch, giảm đáng kể tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, trông chờ - ỷ lại. Kỷ cương trong chuyển đổi số còn được thể hiện ở việc tuyệt đối tôn trọng nguyên tắc: dữ liệu phải “đúng - đủ - sạch - sống - thống nhất - dùng chung”. Đồng thời, việc đánh giá cán bộ, đánh giá tổ chức phải dựa trên kết quả thực tế, lấy mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp và mức độ hoàn thành nhiệm vụ số hóa làm thước đo trung tâm.
Chuyển đổi số phải nhanh, mạnh, nhưng đồng thời phải bền vững; mở rộng nhưng phải an toàn; sâu rộng nhưng không được đánh đổi bằng rủi ro mất dữ liệu hoặc lỏng lẻo kỷ cương. Trong bối cảnh đó, việc tích cực chuyển đổi trạng thái từ thụ động tiếp nhận thủ tục hành chính sang tư duy kiến tạo và phục vụ trở thành một yêu cầu mang tính cải cách cốt lõi. Mỗi cơ quan, đơn vị phải hành động như một “tổ chức dịch vụ công hiện đại”, chủ động thiết kế quy trình, chủ động gỡ khó, chủ động tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
Hai là, tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách. Muốn đổi mới sáng tạo mạnh mẽ thì chính sách phải đủ mạnh, đủ nhanh, đủ linh hoạt. Việc đẩy nhanh ban hành các chính sách ưu tiên về tài chính, đầu tư, nhân lực, mua sắm công và cơ chế thương mại hóa kết quả nghiên cứu sẽ mở đường cho nhiều mô hình mới, sản phẩm mới, doanh nghiệp mới. Chính sách đi trước là điều kiện tiên quyết để tạo niềm tin cho doanh nghiệp công nghệ, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và tạo động lực để các tổ chức nghiên cứu mạnh dạn đề xuất giải pháp mới. Một chính sách thông thoáng, kiến tạo sẽ mở ra không gian phát triển rộng lớn cho chuyển đổi số, thúc đẩy sự ra đời của các mô hình kinh tế số, kinh tế tri thức và kinh tế xanh.
Ba là, xử lý căn cơ các “nút thắt” về hạ tầng - một điểm nghẽn cản trở quá trình chuyển đổi số. Việc tồn tại các “vùng lõm sóng”, “vùng lõm điện” không chỉ là bất cập kỹ thuật mà còn là bất bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ số. Chỉ khi hạ tầng viễn thông, điện lực, truyền dẫn, hệ thống số hóa được hoàn thiện đồng bộ, người dân và doanh nghiệp ở mọi địa bàn mới có cơ hội bình đẳng trong chuyển đổi số. Phát triển hạ tầng số phải theo hướng hiện đại, an toàn và có khả năng mở rộng lâu dài. Trung tâm điều hành thông minh (IOC), các trung tâm dữ liệu, hạ tầng an ninh thông tin và mô hình cửa khẩu thông minh phải được xem là các “hạ tầng cốt lõi”, tương đương vị trí của đường giao thông, thủy lợi trong giai đoạn trước. Đây chính là nền móng để xây dựng chính quyền số hai cấp vận hành bằng dữ liệu thời gian thực, nâng cao năng lực dự báo và xử lý vấn đề một cách kịp thời.
Bốn là, huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực. Khoa học công nghệ và chuyển đổi số luôn cần nguồn lực lớn, liên tục và có tính chiến lược. Do đó, tỉnh phải có cách tiếp cận chủ động trong bố trí vốn, ưu tiên cho các nhiệm vụ nền tảng như phát triển hạ tầng số, kho dữ liệu dùng chung, hệ thống bảo mật và đào tạo nhân lực số. Giải ngân vốn phải được đẩy nhanh, quyết liệt tháo gỡ mọi vướng mắc để tỷ lệ giải ngân trở thành chỉ số đánh giá trách nhiệm người đứng đầu. Chậm giải ngân không chỉ ảnh hưởng tiến độ thực hiện mà còn làm chậm quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Năm là, đẩy mạnh phong trào “Bình dân học vụ số”. Đây là bước đi quan trọng để đưa chuyển đổi số đến từng hộ dân, từng thôn bản, từng tổ dân phố. Khi Tổ công nghệ số cộng đồng thực sự đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng người, mọi người dân sẽ được tiếp cận các kỹ năng số cơ bản, biết sử dụng dịch vụ công trực tuyến, thanh toán không dùng tiền mặt, các ứng dụng phục vụ đời sống. Điều này sẽ tạo ra “văn hóa số” trong cộng đồng, hình thành thói quen số và tạo nền tảng vững chắc để phát triển kinh tế số, xã hội số.
Sáu là, ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội. Trong nông lâm nghiệp, cần thúc đẩy nông nghiệp thông minh, hệ thống giám sát - điều khiển tự động, truy xuất nguồn gốc bằng mã số mã vạch, hỗ trợ nông dân tiếp cận thương mại điện tử. Trong công nghiệp, tập trung phát triển quản trị số, sản xuất tự động hóa, chuỗi cung ứng số để nâng cao năng suất và tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong thương mại - dịch vụ - du lịch và kinh tế cửa khẩu, cần phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới, hệ thống logistics thông minh, du lịch số và mô hình quản lý cửa khẩu thông minh. Những giải pháp này sẽ tạo ra động lực tăng trưởng mới, giúp tỉnh hoàn thành mục tiêu GRDP năm 2025 đạt 8,5% và duy trì mức tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026 - 2030.
Bảy là, chuyển mạnh sang mô hình quản trị và điều hành dựa trên dữ liệu. Dữ liệu phải trở thành tài sản chiến lược, được xây dựng - chuẩn hóa - làm sạch - liên thông - dùng chung. Khi dữ liệu vận hành thống nhất, các thủ tục hành chính mới có thể thực hiện theo nguyên tắc “một lần khai báo - nhiều lần sử dụng”, giảm chi phí giao dịch và nâng cao chất lượng phục vụ. Mục tiêu 100% thủ tục hành chính không phụ thuộc địa giới hành chính trong năm 2025 là một bước tiến lớn, phản ánh quyết tâm của tỉnh trong xây dựng chính quyền số phục vụ Nhân dân.
Tám là, đầu tư tối đa cho nguồn nhân lực chất lượng cao về công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Coi cấp xã là “mắt xích yếu” để tập trung củng cố, bố trí cán bộ chuyên trách, đào tạo bài bản, liên kết với các trường đại học - viện nghiên cứu - doanh nghiệp công nghệ để hình thành đội ngũ có tư duy hiện đại và năng lực vận hành hệ thống số. Khi con người mạnh, hệ thống sẽ mạnh.
Cuối cùng, an ninh mạng và an toàn thông tin phải được đặt ở vị trí trọng yếu. Tỉnh cần chủ động đánh giá - phân loại -khoanh vùng hệ thống thông tin, bảo vệ các hệ thống trọng yếu theo tiêu chuẩn quốc gia, triển khai giải pháp bảo mật tiên tiến, hợp tác với các cơ quan chuyên môn Trung ương và các tập đoàn công nghệ để tăng cường năng lực dự báo, giám sát và ứng phó rủi ro. Không để xảy ra tấn công mạng, rò rỉ dữ liệu, làm ảnh hưởng đến uy tín của tỉnh và quyền lợi của người dân, doanh nghiệp.
Có thể khẳng định rằng chuyển đổi số, phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo không chỉ là nhiệm vụ của riêng một ngành mà là yêu cầu chiến lược, lâu dài đối với toàn bộ hệ thống chính trị của tỉnh. Những kết quả đã đạt được thời gian qua cho thấy Lào Cai đang đi đúng hướng, từng bước hình thành nền tảng cho mô hình quản trị hiện đại, hiệu quả và minh bạch. Tuy nhiên, những tồn tại, điểm nghẽn đã chỉ ra cũng là lời cảnh tỉnh để tỉnh không chủ quan, không bằng lòng với kết quả bước đầu mà phải tiếp tục kiên trì cải cách, nâng cao kỷ cương, siết chặt trách nhiệm, chủ động mở đường bằng cơ chế, chính sách và quyết liệt hành động ở tất cả các cấp.
Những định hướng lớn đã đặt ra không chỉ là nhiệm vụ của năm 2025 mà là trục phát triển xuyên suốt nhiều năm, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của người dân và doanh nghiệp, cùng với sự đồng hành của các bộ, ngành Trung ương và cộng đồng doanh nghiệp công nghệ, Lào Cai sẽ có đủ năng lực để bứt phá, tạo ra mô hình phát triển mới, hiện đại, bền vững và có sức cạnh tranh cao.



