Xây dựng hình ảnh Lào Cai bằng sức mạnh mềm của văn hóa đối ngoại
Trong dòng chảy hội nhập ngày càng sâu rộng, văn hóa không chỉ là hồn cốt dân tộc mà còn là một nguồn lực chiến lược. Ở những địa bàn biên giới như Lào Cai - nơi hội tụ bản sắc đa văn hóa, nơi tiếp giáp và giao thoa với Trung Quốc - việc triển khai Chiến lược văn hóa đối ngoại không chỉ mang ý nghĩa quảng bá hình ảnh, mà còn là công cụ xây dựng lòng tin, mở rộng hợp tác, giữ gìn chủ quyền mềm bằng sức mạnh mềm. Qua 5 năm thực hiện Chỉ thị 25/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Lào Cai đã cụ thể hóa tinh thần chỉ đạo của Trung ương thành những hành động hiệu quả, bài bản, góp phần khẳng định vai trò tiên phong của địa phương biên giới trong thực hiện ngoại giao văn hóa của đất nước.
.jpg)
Điều kiện thực tế của Lào Cai – Yên Bái sau hợp nhất không chỉ là sự mở rộng địa giới hành chính mà còn là một bước ngoặt chiến lược để mở rộng không gian phát triển. Với diện tích 13.256,92 km², dân số gần 1,8 triệu người và 99 đơn vị hành chính cấp xã, tỉnh Lào Cai mới trở thành địa phương lớn về quy mô, đa dạng về văn hóa dân tộc, giàu tiềm năng du lịch, thương mại và giao lưu biên giới. Địa bàn tiếp giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) cùng các tỉnh trọng điểm trong nước như Tuyên Quang, Sơn La, Lai Châu, Phú Thọ... tạo nên vị thế đặc biệt trong tam giác hợp tác quốc tế, khu vực và liên vùng. Trong bối cảnh đó, việc triển khai Chỉ thị 25 không chỉ là nhiệm vụ mà còn là cơ hội để xác lập vai trò “vùng biên mẫu mực” trong chiến lược văn hóa đối ngoại quốc gia.
Giai đoạn 2021 - 2025 diễn ra trong bối cảnh thế giới nhiều biến động: dịch COVID-19 kéo dài, cạnh tranh chiến lược gia tăng, nhu cầu giao lưu, hợp tác quốc tế bị gián đoạn đáng kể. Tuy nhiên, Lào Cai không để những khó khăn làm chậm lại guồng quay hội nhập. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, các sở, ban ngành của hai tỉnh (trước hợp nhất) đã chủ động ban hành các kế hoạch, chương trình hành động về văn hóa đối ngoại. Hệ thống văn bản hướng dẫn, các thỏa thuận quốc tế cấp địa phương tiếp tục được rà soát, gia hạn, bổ sung nội dung về văn hóa, du lịch, giáo dục – thể thao. Sau khi hợp nhất, tỉnh Lào Cai mới tiếp tục kế thừa, thống nhất, điều chỉnh các chính sách để tạo hành lang pháp lý ổn định cho giai đoạn tới.
Điểm sáng rõ nét nhất trong 5 năm qua là hệ thống hoạt động quảng bá văn hóa đối ngoại của tỉnh được tổ chức công phu, quy mô và gắn kết chặt chẽ với các sự kiện chính trị - kinh tế lớn, tạo dấu ấn chiến lược trong tiến trình hội nhập quốc tế của địa phương. Lào Cai, trong quá trình chuyển mình từ một tỉnh miền núi biên giới sang một trung tâm hợp tác khu vực, đã vận dụng linh hoạt hình thức “ngoại giao văn hóa” để lan tỏa giá trị, quảng bá hình ảnh, thu hút hợp tác và đầu tư.
Hàng loạt lễ hội, chương trình giao lưu quốc tế đã được tổ chức hoặc tham gia với tinh thần chủ động, bài bản. Nổi bật trong đó là Festival Sông Hồng - Tuần lễ hợp tác lưu vực sông Hồng Việt – Trung, tổ chức liên tiếp vào các năm 2024, 2025 với nhiều hoạt động giao lưu văn hóa, nghệ thuật, thể thao, hội chợ thương mại quốc tế, thu hút sự tham gia của đông đảo đại biểu hai nước và người dân địa phương. Đây không chỉ là sự kiện du lịch - văn hóa, mà còn là một “sân khấu mềm” để khẳng định vai trò của Lào Cai trong hợp tác xuyên biên giới và xây dựng tuyến hành lang phát triển mới.
Cùng với đó là các Hội nghị hợp tác hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh - Vân Nam (lần thứ X, XI) và các Phiên họp lần thứ 8 đến 11 của Nhóm Công tác liên hợp 5 tỉnh Tây Bắc Việt Nam với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), được tổ chức thành công với thành phần tham dự cấp cao. Đây là những diễn đàn đa phương có tính chiến lược, trong đó các hoạt động văn hóa được lồng ghép như phần “ngoại giao mềm”, góp phần tạo dựng không khí hiểu biết, hữu nghị và tin cậy lẫn nhau giữa các địa phương.
Các lễ hội văn hóa du lịch tại Mường Lò, Mù Cang Chải, Bắc Hà… tiếp tục giữ vững vai trò là "đặc sản văn hóa" của địa phương. Đặc biệt, sự kiện Lễ đón nhận Bằng của UNESCO ghi danh Nghệ thuật Xòe Thái là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, gắn với lễ khai mạc Lễ hội Văn hóa – Du lịch Mường Lò và khám phá Danh thắng Quốc gia đặc biệt ruộng bậc thang Mù Cang Chải năm 2022, đã gây tiếng vang không chỉ trong nước mà cả quốc tế, nâng tầm thương hiệu văn hóa khu vực Tây Bắc.
Tỉnh cũng không ngừng mở rộng hợp tác với các đối tác ngoài khu vực. Có thể kể đến chuỗi hoạt động đặc sắc như triển lãm tranh “Đặc sản tỉnh Yên Bái” tại thành phố Mimasaka, Nhật Bản (diễn ra từ 12/2 đến 31/3/2023 tại 7 địa điểm), Triển lãm “Đất và người Mimasaka – Nhật Bản” tại Bảo tàng tỉnh, Lễ trồng cây hoa anh đào tại Suối Giàng (kỷ niệm 50 năm quan hệ Việt – Nhật). Những hoạt động này không chỉ mang tính văn hóa, mà còn góp phần tạo dựng biểu tượng hữu nghị lâu dài, là nền tảng để thúc đẩy du lịch và hợp tác kinh tế.
Ở chiều ngược lại, nhiều hoạt động đưa văn hóa Lào Cai ra thế giới cũng được tổ chức thành công, tiêu biểu như Chương trình biểu diễn của Đoàn nghệ thuật dân tộc tỉnh tại Lễ hội Maha Kumbh 2025 ở Prayagraj, Ấn Độ – một trong những lễ hội tôn giáo lớn nhất thế giới, hay Liên hoan phim Ấn Độ tại Lào Cai, Chương trình giao lưu nghệ thuật Việt Nam - Ấn Độ năm 2024. Đặc biệt, Chương trình “Ẩm thực cho em” với sự phối hợp của nhiều đại sứ quán nước ngoài tại Việt Nam là một sáng kiến mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự kết nối văn hóa bằng những hành động cụ thể, thiết thực tại trường phổ thông dân tộc bán trú ở Mù Cang Chải.
Hoạt động văn hóa đối ngoại tại khu vực biên giới với sự tham gia của chính quyền và nhân dân hai bên – cũng được tổ chức thường xuyên, góp phần giữ vững đường biên hòa bình, ổn định, hữu nghị. Tiêu biểu là Chương trình Giao lưu hữu nghị quốc tế Xuân 2023, các Đêm liên hoan văn nghệ chào xuân qua biên giới, các đoàn đại biểu châu Hồng Hà và tỉnh Vân Nam sang tham dự lễ hội tại Lào Cai, các giải đua xe đạp “Một đường đua - Hai quốc gia” tổ chức luân phiên hằng năm… Tất cả những hoạt động này là minh chứng sống động cho một nền ngoại giao nhân dân được nuôi dưỡng từ lòng dân, bắt rễ từ văn hóa bản địa.
Thành công của Lào Cai cũng được thể hiện rõ qua việc chủ động xây dựng thương hiệu văn hóa. Các sản phẩm văn hóa đối ngoại như Lễ hội Xo May, Lễ hội Cắc Kéng, Lễ hội cốm Dương Quỳ, Lễ hội bưởi Đại Minh, chương trình “Âm vang hồ Thác Bà”... đã góp phần tạo dựng bản sắc riêng biệt của Lào Cai trên bản đồ lễ hội quốc gia. Dự án trưng bày tại Bảo tàng tỉnh, xây dựng dữ liệu địa chí, phòng đọc sách tiếng Trung… cũng là những công trình văn hóa có ý nghĩa lâu dài trong việc tạo ra “cửa sổ” kết nối với thế giới.
Không thể không nhắc tới sự đóng góp nổi bật và ngày càng chuyên nghiệp của công tác truyền thông đối ngoại trong tổng thể chiến lược quảng bá hình ảnh Lào Cai. Nếu văn hóa là nội dung, thì truyền thông chính là phương tiện đưa văn hóa vượt qua biên giới, tiếp cận cộng đồng quốc tế một cách sống động, gần gũi và hiệu quả. Trong 5 năm qua, truyền thông đối ngoại của tỉnh đã có bước chuyển mạnh mẽ cả về tư duy lẫn phương thức, từ truyền thống sang hiện đại, từ đơn tuyến sang đa nền tảng, từ tiếp cận nội địa sang lan tỏa toàn cầu. Hệ thống truyền thông điện tử của tỉnh đã được phát triển đồng bộ với các cổng thông tin đa ngôn ngữ (tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Trung) như Cổng thông tin điện tử tỉnh Lào Cai Cổng thông tin đối ngoại Lào Cai (doingoailaocai.vn), Cổng thông tin du lịch Lào Cai, đi kèm với các fanpage chính thức của UBND tỉnh và các kênh truyền thông trên nền tảng mạng xã hội. Đây là những nền tảng có độ phủ cao, nội dung phong phú, hình thức hiện đại, giúp tỉnh dễ dàng tiếp cận đa dạng nhóm công chúng, từ doanh nghiệp, nhà đầu tư, nhà nghiên cứu đến người dân, du khách trong và ngoài nước.
Riêng trong năm 2024, hơn 1.900 tin, bài được cập nhật trên các cổng thông tin điện tử, phản ánh toàn diện các chủ trương, chính sách, các sự kiện văn hóa – đối ngoại, kinh tế, du lịch của tỉnh. Không chỉ dừng ở việc đưa tin, các nền tảng này còn tích hợp video, infographic, chuyên mục tiếng nước ngoài, hỗ trợ chia sẻ nhanh chóng qua các mạng xã hội như Facebook, Zalo, YouTube, tạo nên hệ sinh thái truyền thông mở, thân thiện với người dùng di động và thế hệ trẻ – nhóm công chúng đang ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong truyền thông toàn cầu.
Đáng chú ý, tỉnh Lào Cai là một trong những địa phương tiên phong trong việc xây dựng Cụm thông tin đối ngoại tại vùng sâu, vùng xa, biên giới, nơi mà báo chí truyền thống khó vươn tới. Các nội dung về chính trị - xã hội, quốc phòng - an ninh, du lịch - hội nhập, những hình ảnh tiêu biểu về thành tựu đổi mới và bản sắc văn hóa dân tộc... đã được truyền tải đến từng bản làng, góp phần nâng cao nhận thức, lan tỏa tinh thần tự hào và tạo sự đồng thuận xã hội trong triển khai các hoạt động đối ngoại. Bên cạnh đó, sự ứng dụng công nghệ số trong truyền thông đối ngoại được đặc biệt chú trọng. Tỉnh đã từng bước đầu tư vào sản xuất nội dung đa phương tiện, các clip quảng bá du lịch bằng nhiều thứ tiếng, các bộ phim tài liệu ngắn, các chiến dịch truyền thông dịp lễ hội, để truyền tải hình ảnh sinh động, trực quan về con người, văn hóa và thiên nhiên Lào Cai. Việc tận dụng các nền tảng mạng xã hội giúp hình ảnh tỉnh không chỉ tiếp cận đông đảo người xem trong nước mà còn tăng mức độ hiện diện trên môi trường truyền thông quốc tế, đúng với tinh thần “truyền thông đa biên – khán giả toàn cầu”.
Sự chuyển mình mạnh mẽ của công tác truyền thông đối ngoại không chỉ nâng cao hiệu quả thông tin - tuyên truyền, mà còn tạo dựng một thương hiệu địa phương có bản sắc, hiện đại và hội nhập. Nhờ đó, Lào Cai dần được định vị trong tâm trí bạn bè quốc tế không chỉ là một điểm đến du lịch, một địa phương biên giới giàu tiềm năng, mà còn là một đối tác tin cậy, chủ động kết nối toàn cầu bằng sức mạnh mềm của văn hóa và truyền thông.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng nổi bật, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận một số tồn tại, hạn chế đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả bền vững của công tác văn hóa đối ngoại. Việc triển khai một số hoạt động vẫn còn mang tính hình thức, thiếu tính chuyên sâu, chưa thực sự chạm đến chiều sâu văn hóa hay phát huy được tối đa sức mạnh mềm nội tại của địa phương. Một số sự kiện dừng lại ở mức tổ chức lễ hội hoặc giao lưu bề nổi, chưa kết nối được thành chuỗi giá trị phục vụ chiến lược dài hạn như phát triển du lịch văn hóa, truyền thông quốc tế hay xúc tiến đầu tư - thương mại thông qua văn hóa.
Đặc biệt, đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác văn hóa đối ngoại còn mỏng, thiếu kiến thức tổng hợp và kỹ năng chuyên sâu về ngoại ngữ, văn hóa, truyền thông, lễ tân - đối ngoại, và vận hành sự kiện quốc tế. Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, ngoại giao văn hóa không chỉ là công việc của ngành văn hóa hay ngoại vụ, mà đòi hỏi sự phối hợp liên ngành, liên lĩnh vực với tư duy mở và kỹ năng đa chiều. Tuy nhiên, trên thực tế, việc phân công chuyên trách còn chồng chéo, thiếu đầu mối thống nhất; trong khi đó, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ còn chưa được quan tâm đúng mức, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm tự tích lũy và điều chuyển nội bộ.
Về nguồn lực tài chính, phần lớn kinh phí triển khai các hoạt động văn hóa đối ngoại vẫn phụ thuộc vào ngân sách thường xuyên, mức chi chủ yếu đủ cho các hoạt động tuyên truyền - quảng bá thông thường, chưa đủ để tổ chức các sự kiện có tầm quốc tế hoặc để đầu tư vào các sản phẩm văn hóa chuyên biệt, chất lượng cao. Việc thiếu cơ chế huy động nguồn lực xã hội hóa, thiếu quỹ hỗ trợ riêng cho văn hóa đối ngoại đã tạo ra rào cản không nhỏ trong việc chủ động tổ chức sự kiện lớn, xúc tiến các chương trình hợp tác dài hạn với các đối tác nước ngoài.
Ngoài ra, hạ tầng truyền thông, công nghệ thông tin, thiết bị trình chiếu, sân khấu hóa, công cụ tương tác số… – những phương tiện thiết yếu trong thời đại truyền thông số - tuy đã được chú trọng nhưng chưa đồng bộ, còn manh mún ở nhiều cấp. Việc đầu tư nội dung số bằng nhiều ngôn ngữ, các ấn phẩm đa phương tiện, nền tảng số dùng chung… cũng chưa được triển khai mạnh mẽ, gây khó khăn trong việc mở rộng phạm vi tiếp cận quốc tế một cách bài bản, chuyên nghiệp.
Những tồn tại trên đều là những vấn đề mang tính nền tảng, không thể giải quyết trong một sớm một chiều, mà đòi hỏi sự quan tâm đồng bộ và có chiều sâu từ Trung ương đến địa phương, từ nhận thức đến hành động, từ chiến lược cấp cao đến công cụ triển khai cụ thể. Điều này cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nâng tầm nhận thức về vai trò của văn hóa đối ngoại trong toàn bộ hệ thống chính trị - hành chính, xem đó không chỉ là công cụ mềm hỗ trợ du lịch hay ngoại giao chính trị, mà là một trụ cột cấu thành năng lực cạnh tranh địa phương trong kỷ nguyên hội nhập mới.
Nhìn về chặng đường 2026–2030, tỉnh Lào Cai trong vị thế mới sau hợp nhất cần xác định một cách dứt khoát và nhất quán rằng văn hóa đối ngoại không chỉ là phương tiện tuyên truyền mềm, mà là một trong những trụ cột chiến lược trong toàn bộ tiến trình phát triển địa phương. Không gian địa lý mở rộng, tiềm năng văn hóa - du lịch - hợp tác biên giới đa dạng, cùng với những thành tựu ấn tượng trong 5 năm qua, đã tạo nền tảng vững chắc để Lào Cai bước vào giai đoạn mới với tầm nhìn rộng hơn, quyết tâm lớn hơn.
Trong đó, cần quán triệt phương châm cho giai đoạn này là toàn diện - linh hoạt - hiệu quả - bản sắc; toàn diện trong phối hợp đa ngành; linh hoạt trong tiếp cận từng đối tác; hiệu quả trong tổ chức sự kiện, sử dụng nguồn lực; và bản sắc trong mọi sản phẩm văn hóa được giới thiệu ra thế giới. Trọng tâm được đặt vào việc khai thác kho tàng văn hóa các dân tộc của vùng cao Tây Bắc để tạo dựng thương hiệu Lào Cai trên bản đồ văn hóa quốc tế, không chỉ như một địa phương du lịch, mà còn là một trung tâm giao lưu, đối thoại và hợp tác đa phương kiểu mới ở vùng biên giới Việt - Trung.
Tỉnh cần tiếp tục xác định ưu tiên đẩy mạnh hợp tác văn hóa với các đối tác chiến lược, đặc biệt là tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), đối tác giáp biên và có quan hệ truyền thống lâu đời; cùng với các địa phương của Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, nơi đã có tiền lệ hợp tác văn hóa hiệu quả. Từ hợp tác hai chiều, Lào Cai hướng tới hình thành mạng lưới đối tác văn hóa đa phương, nơi giao lưu không chỉ ở cấp chính quyền mà còn lan tỏa đến các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp, nghệ sĩ, trí thức và thanh niên.
Bên cạnh đó, tỉnh cần thường xuyên lồng ghép văn hóa vào các chương trình xúc tiến đầu tư - thương mại - du lịch, biến các sự kiện văn hóa thành “cửa ngõ mềm” để thu hút dòng vốn, dòng du khách, dòng công nghệ và dòng tri thức. Các hoạt động văn hóa đối ngoại sẽ không đứng riêng rẽ, mà được thiết kế như một phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển tổng thể, qua đó nâng tầm vai trò điều phối của các sở, ngành trong việc tổ chức sự kiện, quảng bá hình ảnh tỉnh. Việc ứng dụng chuyển đổi số cũng cần được oi là giải pháp đột phá trong truyền thông đối ngoại. Các nền tảng số, công cụ truyền thông đa phương tiện, dữ liệu văn hóa số hóa, triển lãm trực tuyến, thuyết minh số... sẽ là những công cụ mới để đưa hình ảnh Lào Cai vượt qua giới hạn địa lý, tiếp cận toàn cầu với chi phí thấp nhưng hiệu quả cao. Văn hóa số, truyền thông số, du lịch số sẽ là bộ ba tạo thành trục lan tỏa văn hóa đối ngoại thời đại mới.
Khi đặt Lào Cai với tâm thế của một địa phương chủ động hội nhập, kết nối và lan tỏa bản sắc, đã khẳng định văn hóa đối ngoại đã và đang trở thành một “trụ cột mềm” nhưng có sức mạnh cứng trong việc nâng cao hình ảnh địa phương, thúc đẩy phát triển toàn diện, bảo vệ chủ quyền bằng công cụ nhân văn và hòa bình. Đó là con đường vừa bền vững, vừa hiện đại, phù hợp với xu thế quốc tế và đúng với tinh thần “ngoại giao toàn dân” mà Đảng và Nhà nước ta đang kiến tạo.



