Cổng thông tin điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Lào Cai
Lào Cai
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Phát triển khu, cụm công nghiệp tỉnh Lào Cai giai đoạn 2025–2030: Quan điểm, mục tiêu và định hướng trọng tâm

Trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh và bền vững, phát triển các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) tiếp tục được xác định là một trong những trụ cột quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh Lào Cai. Giai đoạn 2025-2030 được xem là thời kỳ then chốt, đòi hỏi tỉnh phải có quan điểm phát triển nhất quán, định hướng rõ ràng và giải pháp đủ mạnh nhằm khắc phục những điểm nghẽn hiện hữu, đồng thời tạo nền tảng cho phát triển công nghiệp bền vững trong dài hạn.

Vị trí cửa ngõ kết nối Việt Nam với thị trường Tây Nam Trung Quốc; hệ thống hành lang kinh tế dọc trục cao tốc Nội Bài – Lào Cai, Đường sắt tốc độ cao; lợi thế về logistics cửa khẩu, tiềm năng năng lượng, khoáng sản và nguồn lao động trẻ… là những điều kiện quan trọng để tỉnh hình thành các cực tăng trưởng công nghiệp hiện đại. Tuy nhiên, thách thức cũng không nhỏ: yêu cầu chuyển đổi xanh, tiêu chuẩn môi trường ngày càng cao; cạnh tranh thu hút đầu tư giữa các địa phương; sức ép về quỹ đất sạch, hạ tầng đồng bộ, nhà ở công nhân; chất lượng nguồn nhân lực và năng lực của doanh nghiệp địa phương trong chuỗi cung ứng. Trong bối cảnh đó, phát triển khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) không chỉ nhằm mở rộng không gian sản xuất, mà còn là giải pháp trọng tâm để cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng công nghiệp – dịch vụ, nâng cao năng suất, tăng thu ngân sách bền vững, tạo việc làm chất lượng và lan tỏa phát triển sang thương mại, đô thị, dịch vụ logistics.

Trong giai đoạn 2021–2025, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, công tác quy hoạch và phát triển hạ tầng các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Lào Cai đã đạt được những kết quả quan trọng, tạo nền tảng ban đầu cho quá trình phát triển công nghiệp theo hướng tập trung, có trọng tâm, trọng điểm.

Trước hết, hệ thống khu, cụm công nghiệp từng bước được hình thành tương đối đồng bộ về mặt không gian. Đến nay, toàn tỉnh có 07 khu công nghiệp với tổng diện tích quy hoạch 2.143,89 ha và 22 cụm công nghiệp với tổng diện tích 860,78 ha. Mạng lưới này đã góp phần định hình rõ hơn không gian phát triển công nghiệp của tỉnh, từng bước khắc phục tình trạng sản xuất phân tán, xen kẽ trong khu dân cư, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường và thu hút đầu tư.

Hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các khu, cụm công nghiệp ngày càng phát triển, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng chung của tỉnh. Năm 2024, giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp trong khu, cụm công nghiệp chiếm trên 55% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh; tạo việc làm ổn định cho hơn 15.000 lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng thu nhập, bảo đảm an sinh xã hội, nhất là tại các địa bàn nông thôn, miền núi.

Đối với các khu công nghiệp, công tác đầu tư phát triển hạ tầng đạt được nhiều kết quả tích cực. Tổng vốn đăng ký đầu tư vào các KCN đạt trên 37.080 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách nhà nước hơn 971 tỷ đồng đóng vai trò “vốn mồi” quan trọng để đầu tư các hạng mục hạ tầng thiết yếu. Toàn tỉnh có 230 dự án đầu tư trong các KCN, với 175 dự án đã đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng đất công nghiệp.

Nổi bật là KCN Tằng Loỏng – khu công nghiệp trọng điểm, hạt nhân công nghiệp của tỉnh – được đầu tư tương đối đồng bộ về giao thông nội bộ, cấp điện, cấp nước, xử lý nước thải và hệ thống quan trắc môi trường. KCN này đã hình thành mô hình KCN chuyên ngành luyện kim, hóa chất có quy mô lớn, chiếm khoảng 72,25% giá trị sản xuất công nghiệp của toàn bộ các KCN trên địa bàn tỉnh, khẳng định vai trò dẫn dắt, lan tỏa trong phát triển công nghiệp của Lào Cai.

Bên cạnh đó, tỉnh đã tích cực triển khai đầu tư hạ tầng tại các KCN mới như KCN phía Nam, KCN Âu Lâu, KCN Minh Quân. Nhiều hạng mục hạ tầng quan trọng, đặc biệt là tuyến đường trục chính và các nhà máy xử lý nước thải tập trung, đang được thi công hoặc chuẩn bị khởi công, tạo tiền đề quan trọng để thu hút các nhà đầu tư thứ cấp trong giai đoạn tiếp theo.

Đối với các cụm công nghiệp, mặc dù điều kiện đầu tư còn hạn chế, tỉnh đã có nhiều nỗ lực trong huy động nguồn lực và tổ chức triển khai. Đến nay, có 15 CCN do cấp xã quản lý, 01 CCN do Ban Quản lý dự án làm chủ đầu tư và 06 CCN do doanh nghiệp làm chủ đầu tư, với tổng vốn đăng ký đầu tư trên 8.000 tỷ đồng. Trong các CCN, đã có 233 dự án được triển khai, trong đó 198 dự án đã đi vào hoạt động sản xuất, góp phần phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề tại địa phương.

Đáng chú ý, giai đoạn 2021–2025, tỉnh đã thu hút được 06 CCN từ nguồn vốn xã hội hóa, từng bước giảm áp lực cho ngân sách nhà nước. Tại nhiều CCN do cấp xã quản lý, các hạng mục hạ tầng thiết yếu như đường giao thông nội bộ, hệ thống cấp điện, cấp nước đã được đầu tư, tạo điều kiện ban đầu cho doanh nghiệp ổn định sản xuất. Một số CCN đạt tỷ lệ lấp đầy cao, thậm chí đạt 100% như Đầm Hồng, Bắc Duyên Hải, Đông Phố Mới, Sơn Mãn, cho thấy nhu cầu và hiệu quả thực tiễn của mô hình CCN đối với phát triển kinh tế địa phương.

Nhìn tổng thể, những kết quả đạt được trong phát triển hạ tầng khu, cụm công nghiệp thời gian qua là minh chứng rõ nét cho sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy, chính quyền các cấp; sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị; cùng với nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh của tỉnh. Đây là tiền đề quan trọng để Lào Cai bước vào giai đoạn 2025–2030 với quyết tâm cao hơn, cách làm bài bản hơn, hướng tới phát triển các khu, cụm công nghiệp theo hướng xanh, hiện đại và bền vững.

Bên cạnh những kết quả đạt được, phát triển KCN, CCN của tỉnh vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt tại các CCN, còn thiếu đồng bộ; chưa có CCN nào có hệ thống xử lý nước thải tập trung; năng lực giám sát môi trường còn hạn chế, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm. Công tác quy hoạch còn vướng mắc do chồng lấn giữa các quy hoạch ngành; giải phóng mặt bằng tiếp tục là “điểm nghẽn” lớn nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ triển khai các dự án. Thực tiễn đó đòi hỏi tỉnh Lào Cai phải xác lập rõ quan điểm phát triển mới, lấy chất lượng, hiệu quả, môi trường và tính bền vững làm thước đo chủ yếu trong giai đoạn tới.

Quan điểm xuyên suốt trong phát triển KCN, CCN giai đoạn 2025–2030 của tỉnh Lào Cai là phát triển theo hướng xanh – hiện đại – đồng bộ – bền vững, gắn chặt với bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên và nâng cao giá trị gia tăng. Theo đó, phát triển KCN, CCN phải bám sát quy hoạch tổng thể quốc gia và quy hoạch tỉnh; gắn với các trục tăng trưởng chiến lược, đặc biệt là hành lang cao tốc Nội Bài – Lào Cai và tuyến đường sắt tốc độ cao Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng. Chuyển mạnh từ thu hút đầu tư theo chiều rộng sang chiều sâu; ưu tiên các dự án công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ, logistics, chế biến sâu, hạn chế các dự án tiêu tốn tài nguyên, nguy cơ ô nhiễm cao. Đồng thời, phát triển công nghiệp phải hài hòa với đô thị hóa, bảo đảm an sinh xã hội, tạo việc làm bền vững, nâng cao đời sống người lao động và người dân khu vực chịu tác động.

Trên cơ sở đánh giá toàn diện hiện trạng và tiềm năng, tỉnh Lào Cai xác định mục tiêu đến năm 2030 hình thành mới 05 KCN, nâng tổng số KCN lên 12, với tỷ lệ lấp đầy bình quân trên 80%; hình thành mới 15 CCN, nâng tổng số CCN lên 37, tỷ lệ lấp đầy đạt khoảng 60–70%. Tổng diện tích đất công nghiệp làm mới thêm trên 2.000 ha. Đặc biệt, tỉnh đặt mục tiêu 100% KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn; từng bước hình thành ít nhất 01 KCN sinh thái, trước mắt là KCN Tằng Loỏng, tạo mô hình mẫu để nhân rộng. Không gian phát triển KCN, CCN sẽ được tổ chức dọc các trục tăng trưởng chiến lược, gắn với cửa khẩu, logistics và các ga đường sắt tốc độ cao; đồng thời hình thành các CCN chuyên ngành gắn với vùng nguyên liệu nông sản đặc hữu như quế, dược liệu, chế biến nông – lâm sản.

Để hiện thực hóa các mục tiêu trên, tỉnh Lào Cai tập trung triển khai đồng bộ nhiều nhiệm vụ, giải pháp, trong đó:

Phát triển các khu, cụm công nghiệp (KCCN) theo hướng xanh, hiện đại. Quy hoạch và đầu tư đồng bộ hạ tầng các KCN, CCN: Rà soát, điều chỉnh và triển khai quy hoạch các KCN, CCN mới dọc theo các trục tăng trưởng chiến lược. Đầu tư hoàn thiện, đồng bộ hạ tầng kỹ thuật thiết yếu (giao thông, cấp điện, cấp thoát nước, viễn thông) tại tất cả các KCN, CCN đã thành lập và đang hình thành.

Giải quyết dứt điểm nguy cơ ô nhiễm môi trường tại các KCCN hiện có: Đầu tư xây dựng và vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn các KCN (đạt 100%) và CCN. Xây dựng các khu xử lý chất thải rắn công nghiệp tập trung, áp dụng công nghệ hiện đại. Đầu tư hạ tầng xử lý nước thải, chất thải rắn tập trung và áp dụng hệ thống quan trắc môi trường tự động. Tăng cường diện tích cây xanh, sử dụng nguyên liệu tái chế, ưu tiên năng lượng sạch, ứng dụng công nghệ thu gom và xử lý chất thải, nước thải tiên tiến.

Đối với nhóm KCCN chuẩn bị hình thành: Quy hoạch, bố trí các KCN, CCN mới dọc Trục tăng trưởng chiến lược gắn với cao tốc Nội Bài - Lào Cai và các ga đường sắt tốc độ cao Lào Cai - Hải Phòng. Tập trung định hướng thu hút đầu tư vào công nghiệp phụ trợ, công nghệ cao, logistics, cơ khí chính xác. Hình thành các CCN chuyên ngành gắn với các vùng nông sản đặc hữu (như chế biến quế, dược liệu) để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Đối với nhóm KCCN cần di dời, sắp xếp lại: Thực hiện rà soát, đánh giá toàn diện các KCN, CCN cũ có nguy cơ ô nhiễm, hiệu quả thấp, quy mô nhỏ, phân tán hoặc không còn phù hợp quy hoạch. Lập kế hoạch di dời các cơ sở sản xuất không phù hợp ra khỏi khu dân cư vào các CCN đầu tư mới.

Chuyển đổi sang mô hình KCN sinh thái. Xây dựng và triển khai lộ trình chuyển đổi ít nhất 01 KCN hiện hữu (Tằng Loỏng) sang mô hình KCN sinh thái. Áp dụng các tiêu chí về KCN sinh thái ngay từ khâu quy hoạch và thu hút đầu tư đối với các KCN, CCN mới.

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, xử lý dứt điểm, kiên quyết thu hồi các dự án chậm tiến độ, các nhà đầu tư yếu năng lực gây lãng phí tài nguyên đất đai qua đó tạo quỹ đất sạch để thu hút đầu tư chất lượng cao, tăng tỷ lệ lấp đầy các KCCN hiện có. Đồng thời, ưu tiên bố trí vốn để hoàn thiện hạ tầng môi trường thiết yếu (nhà máy xử lý nước thải tập trung) tại các CCN hiện có.

Chuyển trọng tâm từ ưu đãi thuế sang nâng cao chất lượng môi trường đầu tư: phát triển hạ tầng khu công nghiệp đồng bộ, đảm bảo nguồn điện ổn định, quỹ đất sạch, khu công nghiệp chuyên biệt (công nghiệp thông minh, ứng dụng AI).

Đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư (ngân sách nhà nước, hợp tác công-tư (PPP), vốn xã hội hóa, tín dụng xanh, trái phiếu xanh...): Tranh thủ nguồn lực của các nhà đầu tư chiến lược trong và ngoài nước. Đẩy mạnh mô hình hợp tác công - tư (PPP) để đầu tư phát triển hạ tầng KCN, CCN và hạ tầng môi trường.

Ưu tiên nguồn lực thực hiện công tác giải phóng mặt bằng để tạo ra các quỹ đất sạch (phục vụ phát triển các khu, cụm công nghiệp) trước khi chấp thuận dự án đầu tư. Tập trung giải quyết triệt để "điểm nghẽn" giải phóng mặt bằng bằng cách: tăng cường đối thoại, giải thích chính sách đền bù rõ ràng; phân cấp nhiệm vụ về cấp xã để rút ngắn quy trình; áp dụng biện pháp cưỡng chế đúng quy định với các trường hợp cố tình không bàn giao; chủ động tạo quỹ đất sạch trước khi kêu gọi đầu tư.

Thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao bằng chính sách đãi ngộ phù hợp. Hỗ trợ nhà đầu tư hạ tầng xây dựng các công trình dịch vụ, tiện ích công cộng và nhà ở cho người lao động. (iv) Phát huy năng lực các trường cao đẳng, đại học trong tỉnh (Trường cao đẳng nghề; Phân hiệu Đại học Thái nguyên tại Lào Cai…) về đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghiệp xanh.

Với quan điểm phát triển rõ ràng, mục tiêu cụ thể và hệ thống giải pháp đồng bộ, định hướng phát triển các khu, cụm công nghiệp giai đoạn 2025–2030 của tỉnh Lào Cai không chỉ nhằm mở rộng không gian sản xuất, mà còn hướng tới nâng cao chất lượng tăng trưởng, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Đây sẽ là nền tảng quan trọng để công nghiệp Lào Cai tiếp tục khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh trong giai đoạn mới.


Đào Văn Ngọc, chuyên viên Phòng Tổng hợp, Văn phòng Tỉnh ủy Lào Cai
Bình luận

Các tin khác

Tin đọc nhiều