Một cách tiếp cận văn chương

Thứ năm, 14/01/2016 17:18
(ĐCSVN) – Tác giả Lê Thị Bích Hồng đã cố gắng hết mình tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số; vượt qua rào cản ngôn ngữ để bắt được sự sáng tạo, cái độc đáo trong ngôn ngữ thể hiện của mỗi dân tộc; chỉ ra được cái đặc sắc của phong cách mỗi nhà văn mà mình yêu mến.

Chân dung nhà văn dân tộc thiểu số được Lê Thị Bích Hồng trân trọng đưa vào tập sách gồm các tác giả: Nông Quốc Chấn, Y Phương, Cao Duy Sơn, Mai Liễu (dân tộc Tày); Bàn Tài Đoàn (dân tộc Dao); Lò Ngân Sủn (dân tộc Giáy); Pờ Sảo Mìn (dân tộc Pa Dí). Như vậy, các tác giả đều là nhà văn của hai Hội chuyên ngành Trung ương: Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Trong số 7 tác giả có mặt trong cuốn tiểu luận phê bình văn học thì đã có 4/7 nhà văn dân tộc Tày (chiếm hơn 57%). Tôi cũng khảo sát ngay cuốn Kỷ yếu Nhà văn Việt Nam hiện đại (NXB Hội Nhà văn, năm 2010), trong tổng số hơn 1.000 nhà văn Việt Nam hiện đại thì đã có 52 nhà văn các dân tộc ít người, trong đó có 21 nhà văn dân tộc Tày (chiếm 40%). Một con số biết nói. Một con số gợi bao suy nghĩ. Tôi chưa thấy ai lý giải ngọn ngành hiện tượng vì sao dân tộc Tày lại sản sinh ra nhiều văn nhân như thế trong nền văn chương Việt Nam thời hiện đại? Tôi cũng đồng thời chờ đón câu trả lời bước đầu của Lê Thị Bích Hồng trong cuốn sách mới nhất của chị. Có lẽ cùng lúc phải huy động và vận dụng phương pháp liên ngành (Tiểu sử, Địa - văn hóa, Phong cách học, Thi pháp học, Dân tộc học, Xã hội học,…) để nghiên cứu đặc sắc và đóng góp của mỗi nhà nghệ sĩ ngôn từ thuộc các dân tộc anh em trên dải đất hình chữ S trong sự phát triển của nền văn học Việt Nam thời hiện đại. Lê Thị Bích Hồng đang cố gắng đi theo hướng này và có những thành công bước đầu đáng ghi nhận.

Tìm mẫu số chung

 Mỗi nhà văn được “vẽ” và “dựng” trong tập sách này đều rất sáng rõ về lộ trình sáng tác theo phương pháp tiểu sử. Tuy nhiên mỗi người lại có con đường riêng, hay là những nẻo lối riêng của mình khi đến với văn chương. Nhưng có một đại lộ chung cho các nhà văn thuộc nhiều thế hệ khác nhau: đó là cách mạng, kháng chiến chống Pháp và Mỹ, là công cuộc xây dựng đất nước thời hậu chiến trong xu thế đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững. Văn chương không phải là lịch sử, tất nhiên. Nhưng văn chương không thể đứng ngoài lịch sử và chính trị, vốn là những phương diện (hay là phạm trù) quan trọng tạo nên sinh khí của các hoạt động tinh thần của con người ở bất kì thời đại nào. Từ nhà thơ Nông Quốc Chấn (1923-2002) đến nhà văn Cao Duy Sơn (sinh năm 1956) là các thế hệ nối tiếp. Nhưng họ có một mẫu số chung đó là “người của thời đại cách mạng”. Thử hình dung nhà thơ Nông Quốc Chấn từng tham gia cách mạng thời kỳ Việt Minh từ trước tháng Tám năm 1945, với Y Phương nhập ngũ năm 1968, lúc tròn 20 tuổi đời, là cả một khoảng thời gian dài rộng mấy chục năm ròng. Nhưng cái đích đến cũng như động cơ cầm bút của các thế hệ này lại chỉ là một. Lại nữa, cũng do thời thế mà cái ý thức làm văn của họ như một “nghề” là chưa thật rõ, cái “nghiệp” văn mới là chính yếu, quan trọng. Đành rằng tác phẩm in ra thì có nhuận bút, mà có thể thời bao cấp thì nhuận bút cao hơn, có giá hơn bây giờ. Nhưng họ viết như một sự thúc bách nội tâm, như một duyên kiếp, như một định mệnh thì đúng hơn. Và họ đều trung thành, thậm chí nói quá lên là có một lòng sống chết với văn chương chữ nghĩa. Coi hành động sáng tạo là một trách nhiệm công dân, trách nhiệm nghệ sĩ trước xã hội, không coi văn chương chỉ là một “trò chơi”, thậm chí là “một trò chơi vô tăm tích”. Và một điểm này nữa cũng tạo nên mẫu số chung của họ: đó là tình yêu tiếng mẹ đẻ (là tiếng dân tộc sinh ra họ) và tiếng Việt chung cho cả cộng đồng 90 triệu người. Tiếng dân tộc như ngọn suối mát lành nơi sinh ra họ và tiếng Việt như dòng sông Cả đổ ra biển lớn.

Một phương diện quan trọng trong mẫu số chung của các nhà văn dân tộc được “dựng” trong cuốn sách này chính là nhân cách nhà văn từ góc nhìn văn hóa. Hạt nhân của “nhân cách” chính là đạo đức, và hạt nhân của đạo đức chính là tình thương. Người ta vẫn thường hay nói “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”. Nhưng tôi muốn nói “Tình thương cứu rỗi thế giới” theo tinh thần khoan dung, hòa hiếu của thời đại. Chỉ cần một chi tiết, vị Thứ trưởng (Bộ Văn hóa) kiêm Hiệu trưởng (Trường Đại học Văn hóa Hà Nội và Trường Viết văn Nguyễn Du) Nông Quốc Chấn tận tình chăm sóc người đồng hương và là học trò Hứa Vĩnh Sước - Y Phương khi anh nằm viện, đủ thấy được trái đất này, cuộc đời này chưa bị đóng băng và tan rữa vì tình thương vẫn còn đầy, tình người vẫn nồng ấm. Rồi chuyện nhà thơ Bàn Tài Đoàn bị rắn độc cắn đã được anh em Hội Văn nghệ Việt Bắc tận tình cứu chữa, thay nhau xuyên rừng, lội suối cáng nhà thơ ra bệnh viện khu sơ tán. Khi Bệnh viện khu bó tay, xe cấp cứu đã đưa ông về ngay Bệnh viện Việt - Xô trong hoàn cảnh tránh máy bay địch, không bật đèn nên phải đi dò dẫm. Các bác sĩ ở đây dù đã tận tâm chạy chữa, nhưng do chân garo quá lâu nên đã bị hoại tử. Lại nữa, bài báo của nhà văn Tạ Duy Anh đã khiến thiên hạ và các nhà tổ chức tỉnh trí lại để thu xếp công ăn việc làm cho nhà văn Cao Duy Sơn đang thất nghiệp sau mấy năm đèn sách theo học Trường Viết văn Nguyễn Du. Hội Nhà văn Việt Nam đã cố gắng thu xếp nơi ăn chốn ở, dẫu còn “khiêm tốn” cho “Đứa con của núi” Lò Ngân Sủn về Thủ đô nhận công tác những ngày đầu bao khó khăn… Đó là tình người trong hoạn nạn. Ứng xử chính là một trong các phương diện để nhận diện tố chất văn hóa của con người.

Tập tiểu luận - phê bình văn học “Những người tự đục đá kê cao quê hương"
 của TS. Lê Thị Bích Hồng.

Tri nhận phong cách

Trong sáng tạo nghệ thuật thì phong cách là cái thước đo quan trọng nhất để định vị, định giá tài năng và đóng góp của người nghệ sỹ. Là một nhà văn người dân tộc Kinh, tác giả Lê Thị Bích Hồng đã cố gắng hết mình tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số; vượt qua rào cản ngôn ngữ để bắt được sự sáng tạo, cái độc đáo trong ngôn ngữ thể hiện của mỗi dân tộc; chỉ ra được cái đặc sắc của phong cách mỗi nhà văn mà mình yêu mến. Cảm nhận và phân tích phong cách nghệ thuật của mỗi cá nhân nghệ sỹ là điều khó nhất đối với nhà nghiên cứu, lý luận phê bình văn học nghệ thuật. Phong cách gắn liền với cá tính sáng tạo. Cá tính là sự hun đúc có khi ngẫu nhiên nhưng chủ yếu là tất nhiên của tài năng bẩm sinh đã đành, nhưng chủ yếu là do sự kiên nhẫn tự rèn luyện. Nói cách khác, tiếp cận một phong cách nghệ thuật, nhà nghiên cứu phải dày công phân tích cho được những yếu tố khách quan và chủ quan đã hun đúc nên tài năng ấy. Cái gọi là “trời cho” của một tài năng nhiều khi không rõ ràng, thậm chí mơ hồ, huyền bí và ít ỏi. Nhưng những cái “đời cho” thì hiển hiện, phát lộ, và thường là dư dả. Và cốt nhất vẫn là sự nỗ lực vươn lên của mỗi cá nhân, tôi gọi đó là “người cho”. Ba nhân tố này kết tinh lại trong một cá thể sáng tạo. Phong cách những nhà văn được “vẽ” và “dựng” trong tập sách này, theo tôi, đã hội đủ “3 trong 1”. Nếu không có sự lăn lộn, từng trải, nếm đủ các thăng trầm của cuộc sống, tôi chắc không có một Y Phương như hôm nay, ấy là nói một ví dụ rất cụ thể để thấy. Lại nói về cái chủ quan trong một phong cách, như trường hợp Y Phương, tôi thấy qua cách phân tích của Lê Thị Bích Hồng, đó là sự hào hiệp của chủ thể. Hào hiệp và phóng khoáng. Đó là phẩm tính quan trọng của một hồn thơ. Nhà văn Châu La Việt trong một bài báo gần đây in trên báo Văn nghệ đã ví von Y Phương như một cánh chim đại bàng của núi non hùng vĩ. Hào hiệp và trong sáng, chân phương và giản dị đó là cái chất của nhà thơ này. Đọc Y Phương và các nhà văn dân tộc mới cảm hết cái chất hồn nhiên, mộc mạc, trong sáng và lành mạnh của văn chương.

Đọc tác phẩm của Lê Thị Bích Hồng độc giả “lẩy” ra được những nét chính trong phong cách mỗi nhà văn. Đó là một Nông Quốc Chấn với “sự giản dị, giản dị đến mức tưởng như không còn gì có thể giản dị hơn. Thơ ông hồn nhiên, giản dị như núi rừng”. Người ta nói “cái Đẹp là sự giản dị” quả không sai, ứng vào trường hợp Nông Quốc Chấn là sát hợp nhất. Đó là Bàn Tài Đoàn trong thơ nguyên vẹn và tinh khôi của những thiên nhiên trong lành, của những tình cảm chân phương, của những ngôn từ giản dị mang phong vị dân gian “Bàn Tài Đoàn luôn có ý thức dung dưỡng thơ mình bằng nguồn thơ ca dân gian” (Nhân bàn về nhà thơ này, thiết nghĩ cách viết của Lê Thị Bích Hồng gợi cho chúng ta suy nghĩ nghiêm túc hơn về văn hóa dân gian luôn luôn như là nguồn sữa nuôi dưỡng văn học viết; dường như các nhà thơ dân tộc ít người có cái ý thức sâu sắc hơn các nhà thơ dân tộc Kinh về sự hứng khởi tiếp nhận nguồn suối Folklor -Nghệ thuật dân gian - Phải chăng họ sống gần thiên nhiên hơn? Phải chăng tâm hồn họ thuần phác và giản dị hơn? Phải chăng họ sống hòa mình với nhân quần nhiều hơn?). Một Cao Duy Sơn thâm trầm, sâu sắc trong văn xuôi, một lối văn xuôi không tự đóng khung trong giới hạn không gian - thời gian chật hẹp của nơi sinh thành. Trái lại rất “mở” trong chủ đề, phong cách và bút pháp. Truyền thống và hiện đại kết hợp nhuần nhuyễn khiến cho văn xuôi Cao Duy Sơn đi ra  được biển lớn, hòa nhập được với khu vực (tập truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối nhận Giải thưởng văn học ASEAN, 2009). Lại thấy một Từ Ngàn Phố luôn nỗ lực để thơ lúc nào cũng “cao, sâu và trong”. Cứ nhẩn nha như vậy tác giả Lê Thị Bích Hồng đã cố gắng hết sức để dẫn dắt người đọc đi vào thế giới nghệ thuật của mỗi nghệ sỹ ngôn từ. Đủ rộng nhưng cần sâu hơn nữa khi phát kiến các phong cách nghệ thuật. Đã nhuần nhuyễn trong phân tích nhưng cần tinh tế hơn nữa để làm phát lộ cái hương, cái vị của phong cách. Và nhất là những dư ba do phong cách này hay khác ghi dấu trong đời sống văn chương Việt Nam thời kì hiện đại. Ấy là tôi muốn nói đến một kết quả có tính chất lý tưởng đối với tác giả Lê Thị Bích Hồng.       

 

Bùi Việt Thắng
Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực