Nguy cơ sạt lở ở ĐBSCL có thể tăng cao đầu mùa mưa

Thứ sáu, 03/04/2020 09:34
(ĐCSVN) - Khi vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang ở giữa mùa hạn mặn khốc liệt, khu vực này đang trông mùa mưa đến để giải hạn, thế nhưng khi mùa mưa bắt đầu vào khoảng tháng 6-7 tới khả năng sạt lở tại ĐBSCL có thể tăng cao.

Đó là chia sẻ của Ths Nguyễn Hữu Thiện, Chuyên gia  độc lập về sinh thái ĐBSCL với phóng viên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.

 Ths Nguyễn Hữu Thiện, Chuyên gia độc lập về sinh thái ĐBSCL (Ảnh: NVCC)

Phóng viên (PV): Căn cứ vào những yếu tố nào mà ông dự báo về tình hình sạt lở ở khu vực ĐBSCL sẽ đến sớm, thưa ông?

Chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện: Năm nay  hạn, mực nước sông hạ thấp, bờ sông trở nên cao hơn so với mặt nước, làm bờ sông nặng hơn, dễ sụp hơn. Thêm vào đó, mùa lũ 2019 thấp, nước sông Mekong chảy yếu nên lượng cát, phù sa vận chuyển về hạ lưu rất ít, càng làm cho ĐBSCL thiếu hụt cát, cộng với tình hình khai thác cát làm đáy sông sâu hơn.

Vào đầu mùa mưa, dòng nước lũ từ thượng nguồn đổ về làm nước bắt đầu chảy mạnh. Nhưng vào lúc này, mực nước sông còn thấp nên dòng nước hoạt động ở chân bờ, gây bào mòn vào chân bờ sông tạo “hàm ếch” bên dưới làm cho khối đất bên trên trở nên “không chân”, rất nguy hiểm.

Vì vậy, dù đang trong tình trạng hạn-mặn, chúng ta cần đề phòng chuyện này khi mùa mưa đến.

PV: Những năm gần đây, tình hình sạt lở bờ sông, xói lở bờ biển tại khu vực ĐBSCL ngày càng tăng, không chỉ xảy ra vào mùa mưa mà còn diễn ra vào mùa khô, gây ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân cũng như sự phát triển kinh tế- xã hội trong khu vực, theo ông đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này ?

Chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện: Nguyên nhân sâu xa của sạt lở bờ sông, bờ biển là do thiếu hụt phù sa trong nước cũng như sự chặn cát và phù sa của các đập thủy điện, việc khai thác cát trên sông Mekong.

Thiếu hụt phù sa trong nước làm cho thiếu hụt vật liệu bồi đắp đồng bằng, đồng thời làm cho dòng nước ít đục hơn, nhẹ hơn và trở thành “nước đói” phù sa bào mòn bờ sông và đáy sông gây sạt lở.

Thiếu hụt cát sẽ làm cho đáy sông bị hạ thấp hơn, và gia tăng chiều cao, sức nặng của bờ sông như đã bàn ở trên. Nghiên cứu của các nhà khoa học Đại học Lyon Pháp cho biết trong 10 năm từ 1998 đến 2008, sông Tiền và sông Hậu do mất cát đã bị hạ thấp trung bình 1.3 mét.

Một khảo sát năm 2017 của Đoàn Văn Bình (Đại học Thủy lợi) cũng cho thấy, đáy sông từ Tân Châu đến Vàm Nao chỉ trong 3 năm từ 2014 - 2017 đã bị hạ thấp 1.5m, với tốc độ 0.5m/năm, gấp đôi tốc độ 0.25m/năm trong giai đoạn 1998-2008 do các nhà khoa học Pháp ước lượng.

Bên cạnh đó, nguyên nhân tại từng điểm cụ thể thì rủi ro sạt lở tùy vào đặc điểm của bờ và của dòng chảy tại nơi đó.

Đối với dòng chảy, rủi ro tăng cao ở những nơi dòng sông bị thắt lại, vì dòng chảy đi ngang qua đó phải tăng tốc, chảy mạnh hơn. Nếu dòng chảy bị lấn một bên thì áp lực gia tăng bên kia, nếu lấn hai bên thì áp lực gia tăng cả hai bờ và đào hố sâu ở đáy sông.

Cùng với đó, rủi ro cũng tăng cao ở những nơi sông cong. Chỗ sông cong thì bên bờ lõm gọi là vịnh, bên lồi gọi là doi. Dòng chảy luôn có khuynh hướng muốn đi thẳng, nhưng đến đoạn sông cong buộc phải đổi hướng nên sẽ tạo lực ly tâm va đập vào bờ phía vịnh, đồng thời đường tim sông (đường sâu nhất dọc theo sông) lẽ ra đi giữa sông thì bị dời sát vào phía vịnh. Lực ly tâm qua đoạn sông cong cũng làm cho mực nước phía vịnh bị đẩy lên cao hơn so với bờ bên kia. Tùy theo sức mạnh dòng chảy và độ cong của dòng sông, sự chênh lệch mực nước có thể không thể nhận biết bằng mắt thường. Mực nước bị lực ly tâm đẩy lên cao như thế sẽ bị trọng lực kéo xuống làm xoắn dòng chảy. Như vậy tại điểm cong này dòng chảy vừa đi tới vừa xoắn, như là “mũi khoan nước”.

Vào đầu mùa lũ, khi dòng nước mạnh lên nhưng mực nước còn thấp, “mũi khoan nước” này nạo vào chân bờ sông tạo hàm ếch và nạo vào đáy sông tạo vực thẳm. Lúc này bờ sông ở trên không có gì chống đỡ, đổ ụp xuống. Ngày xưa vẫn luôn có dòng chảy xoắn ở  những vị trí vịnh đó, nạo vét chân bờ, nhưng đỡ hơn vì nó mang nặng phù sa mịn và có đủ cát để tiêu hao năng lượng. Còn bây giờ, phù sa và cát đều thiếu hụt, nên dòng chảy bị dư năng lượng, hình thành “nước đói” có sức công phá lớn, nó đào vực thẳm và cắt đứt chân bờ sông nhanh hơn xưa.

Đối với bờ sông, có năm yếu tố quyết định độ rủi ro sạt lở của bờ.

Một là, độ kết dính của đất, đất càng bời rời, kết dính kém càng dễ bị sạt lở. Đất pha nhiều cát thì độ kết dính kém hơn so với đất nhiều sét, hữu cơ. Hai là, trọng lượng riêng của đất càng nặng thì nó càng dễ sụp. Đất có nhiều cát thì càng nặng hơn so với đất nhiều hữu cơ. Ba là, chiều cao bờ sông so với mặt nước, bờ sông càng cao thì càng nặng và dễ sụp. Bốn là, áp lực lổ rỗng trong đất, khi đất no nước thì có lực chống đỡ cho đất. Tuy nhiên, độ ẩm thay đổi đột ngột từ ướt sang khô hay từ khô sang ướt sẽ làm mất ổn định. Năm là, mái dốc bờ sông, càng dốc đứng càng nguy hiểm. Đối với từng loại đất sẽ có mái dốc ổn định tương ứng.  Đất càng lỏng lẻo thì đòi hỏi dốc phải lài hơn mới ổn định được. Đất cát thì phải lài hơn so với đất sét, đất hữu cơ. Như vậy, tùy vào bốn yếu tố trên mà mái dốc cần có độ lài nào đó để đạt độ ổn định.

PV: Vậy, tại sao có những nơi không có khai thác cát vẫn bị sạt lở thưa ông?

Chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện: Khi đáy sông chính bị hạ thấp thì quá trình tái phân phối đáy sông sẽ diễn ra. Sông chính sẽ rút đáy sông nhánh ra, sông nhánh sẽ rút đáy sông rạch nhỏ hơn, cứ như thế làm cho toàn bộ các đáy sông rạch bị sâu thêm. Điều này giải thích tại sao sạt lở lan tỏa khắp nơi, cả những nơi không có khai thác cát.

Thiếu hụt cát trong sông cũng làm cho đoạn bờ biển 250km phía đông ở vùng cửa sông Cửu Long bị thiếu hụt cát, gia tăng sạt lở bờ biển. Thiếu hụt bùn làm cho lớp nước biển bao bọc quanh bờ biển ĐBSCL khoảng 30km từ bờ ra bị bớt đục, nhẹ hơn, thiếu vật liệu bồi đắp bờ biển, giảm khả năng hấp thu năng lượng sóng, gia tăng sạt lở những đoạn bờ biển bùn (từ Bạc Liêu tới Mũi Cà Mau ở phía đông và từ Mũi Cà Mau sang bờ biển phía tây).

PV: Trong Nghị quyết 120 của Chính phủ xác định phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, ở góc độ chuyên gia nghiên cứu về khu vực này, theo ông để giảm thiểu rủi ro do tình trạng sạt, lở người dân và chính quyền cần phải làm gì, giải pháp căn cơ lâu dài là gì?

Chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện: Tinh thần chung của Nghị quyết 120 là tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên. Đây là cách tiếp cận rất sáng suốt.

 Mặc dù đang ở mùa khô, xâp ngập mặn nhưng tại Gò Công (Bến Tre) đã xảy ra tình trạng sạt lở (Ảnh: HM)

Từ tình thần đó, chúng ta cần phân biệt cái gì làm được, cái gì không thể làm, và biện pháp nào là hiệu quả, biện pháp nào là không hiệu quả. Từ đó làm cơ sở để ưu tiên đầu tư, tránh lãng phí, kém hiệu quả, và thất bại.

Với hình đặc biệt năm nay, trước mắt người dân sống ven sông rạch và chính quyền địa phương cần tiên liệu trước rằng sạt lở có thể diễn ra dữ dội đầu mùa mưa khoảng tháng 6-7. Đặc biệt chú ý các địa điểm sông cong, nơi bờ sông cao, đất nhiều cát, mái dốc quá hắm, và các đoạn sông Hậu, sông Tiền ở An Giang, Đồng Tháp để theo dõi chặt chẽ, di dời sớm và chuẩn bị lực lượng ứng cứu để tránh thiệt hại tính mạng và tài sản.

Đối với bối cảnh chung, vì nguyên nhân gốc của vấn đề là thiếu cát và thiếu phù sa, cần hạn chế khai thác cát ở nội tại ĐBSCL. Việc này xem ra đang khó khăn vì nhu cầu cát rất lớn. Còn lại tất cả hành động ở ĐBSCL đều không giải quyết được nguyên nhân gốc rễ là thiếu cát, phù sa, tức mọi hành động chỉ là ứng phó, chống đỡ, và sạt lở sẽ vẫn còn tiếp diễn.

Trong tình hình đó, chỉ có cách là ứng phó tình huống và so sánh, chọn lựa phương án cho từng vụ sạt lở cụ thể.

Chọn biện pháp mềm hay cứng thì quan trọng nhất là xem có bảo vệ được phần chân bờ sông hay không. Nếu phần chân không thể bảo vệ thì sạt lở vẫn diễn ra.

Ở những nơi nào biết rằng không thể bảo vệ thì nên đành chọn phương án rút lui, ưu tiên dùng kinh phí để tái định cư ổn định đời sống sớm cho người dân. Cũng cần cân nhắc chi phí-lợi ích, chỉ nên chi phí lớn để bảo vệ những nơi xung yếu không thể bỏ, biết rằng can thiệp nơi này có thể gây sạt lở nơi khác. Đem cát nơi khác đắp nơi này thì gây thiếu hụt chung và gia tăng sạt lở toàn hệ thống sông. Cuối cùng, trước khi sạt lở thì nên xem là tình huống khẩn cấp. Khi sạt lở đã xảy ra, ở giai đoạn khắc phục thì việc phân tích thấu đáo, chọn đúng phương án hiệu quả mới là ưu tiên hàng đầu.

PV: Xin cảm ơn ông!.

 

Hoàng Mẫn (Thực hiện)

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực