Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp - Chân dung một danh tướng

Thứ sáu, 11/10/2013 15:38

(ĐCSVN)Để tưởng nhớ Đại tướng Võ Nguyên Giáp và để đông đảo bạn đọc hiểu rõ thêm về Đại tướng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đã trích giới thiệu Phần 1 và Phần 2 của Chương cuối trong cuốn sách Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp của tác giả Trần Trọng Trung, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử chiến tranh, Viện Khoa học Quân sự, Bộ Quốc phòng. Sách do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật xuất bản năm 2006. Sau đây, chúng tôi xin tiếp tục trích giới thiệu Phần 3 trong Chương cuối của cuốn sách này.

>> Phần 1: Nhà chính trị đi trước nhà quân sự

>> Phần 2: Cái "tôi" trong mối quan hệ với tập thể

 

Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm đơn vị nữ thông tin và quân y (tháng 5/1973). 



Phần 3: "Một thống soái quân sự cỡ lớn"

Đó là cách đánh giá của Đại tướng Mỹ Oétmolen, "đối thủ hôm qua" của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Bằng nhiều cách diễn đạt khác nhau, các tướng lĩnh và sử gia phương Tây đều có những nhận xét tương tự.

Đại tướng Anh P.M.Đônan thì coi Võ Nguyên Giáp là "một trong những thống soái lớn nhất của tất cả các thời đại". Tướng M.Bigia, một sĩ quan chỉ huy xông xáo nhất trên chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa, sau là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Pháp, chỉ nói gọn một câu khi kết thúc cuộc phỏng vấn của hãng thông tấn quốc tế Pháp RFI nhân kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ: "Tôi xin ngả mũ chào bái phục Tướng Giáp". Một sử gia phương Tây rất quen biết Việt Nam là Bécna Phôn khẳng định trong cuốn Võ Nguyên Giáp - con người và huyền thoại rằng: "Trong một tương lai có thể thấy trước, phương Tây chưa thể đào tạo được một vị tướng nào có thể so sánh kịp với Tướng Giáp". Ducan Townson, tác giả cuốn Những vị tướng lừng danh (Famous generals - xuất bản ở Luân Đôn nhân dịp giải phóng miền Nam) thì coi Võ Nguyên Giáp là 1 trong 21 vị danh tướng trong vòng 25 thế kỷ qua, từ thời xa xưa với Alexandre Đại đế đến Hannibal rồi đến thời hiện đại, với Giucốp... Theo Ducan, mỗi vị danh tướng đó đều lập những chiến công "tạo nên bước ngoặt của nghệ thuật chiến tranh".

Chúng ta hiểu tất cả những lời đánh giá và khen ngợi đó theo quan điểm quân sự của Đảng ta - Võ Nguyên Giáp là vị thống soái quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam, của Quân đội nhân dân Việt Nam và là người đi đầu trong việc vận dụng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh vào chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Các nhân sĩ và tướng lĩnh Việt Nam đều có cách đánh giá riêng của mình. Cụ Vũ Đình Hòe nói: "Đến nay, tôi vẫn chưa thể thấy hết được sự nghiệp to lớn của Võ Nguyên Giáp. Tôi chỉ thấy rất rõ: Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bác Hồ trong các chiến dịch lớn, Võ Nguyên Giáp - với cương vị Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam - đã chỉ huy và chỉ đạo toàn quân lật ngược thế cờ trong hai cuộc chiến tranh nhân dân chống Pháp và chống Mỹ.

Tư duy của một giáo sư sử học và tư duy của một luật gia1 cũng đều góp phần quan trọng vào tài phân tích địch - ta, phân tích chiến trường và phân tích các vấn đề đối ngoại của vị Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp.

Tư duy của Võ Nguyên Giáp do được phát huy trên cái nền tư tưởng Hồ Chí Minh cho nên đã đạt tới một tầm cao đặc biệt, một tầm cao hiếm có trong chỉ huy và chỉ đạo các chiến dịch dù nhỏ hay lớn (của vị Tổng Chỉ huy) và trong chỉ đạo toàn quân về chính trị (của vị Bí thư Quân ủy Trung ương).

Tư duy của Võ Nguyên Giáp tập trung phân tích toàn cục nhưng đồng thời cũng xoáy vào phân tích cái phần tiêu biểu nhất trong toàn cục để tìm ra giải pháp tốt nhất, để tìm ra cách đánh tốt nhất (như đánh chắc - thắng chắc ở Điện Biên Phủ), tìm ra cách đánh tốt nhất tức là rút ngắn thời gian đi tới đại thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu nói riêng và đi tới thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến nói chung, giảm bớt thương vong cho tướng sĩ, vươn lên tầm cao của chủ nghĩa nhân văn.

Tóm lại, qua hai cuộc kháng chiến, tôi thấy: Bản lĩnh Võ Nguyên Giáp hơn hẳn các đối thủ lớn Pháp - Mỹ về tư duy quân sự - chính trị".

Từ thực tế cuộc đời làm tướng của mình, dưới sự dìu dắt của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong 30 năm chiến tranh giải phóng, các tướng lĩnh đều rút ra những nhận xét riêng mang tính thu hoạch về người thủ trưởng cao nhất của mình. Dù là tướng lĩnh trong Tổng hành dinh hay trực tiếp cầm quân ngoài chiến trường, dù diễn đạt dưới nhiều góc cạnh khác nhau, nhưng tựu trung các ông đều nói lên một vấn đề, đó là tài thao lược Võ Nguyên Giáp.

Theo Thượng tướng Trần Văn Trà: "Nhiều ý kiến có tầm nhìn xa trông rộng sắc sảo và độc đáo của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ về chiến lược quân sự và về chiến thuật quân sự cần được giới sử học nghiên cứu thật công khai, thật công phu, thật công bằng và thật công tâm. Về phần mình, suốt hai cuộc kháng chiến, tôi chưa hề thấy Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp mắc một sai lầm nào về chiến lược và chiến thuật quân sự; tôi chỉ thấy anh Văn đi những nước cờ bậc thầy vây hãm và tiến công quân địch".

Trao đổi với phóng viên tờ Quốc tế (8/2001), Thượng tướng Hoàng Minh Thảo nói: "Võ Nguyên Giáp là bậc thầy về cách đánh. Anh Văn luôn tìm ra cách đánh độc đáo và sáng tạo, vừa đảm bảo thắng lợi cao nhất cho chiến dịch, vừa hạn chế cao nhất thương vong của tướng sĩ. Võ Nguyên Giáp là một vị thống soái có tài thao lược kiệt xuất. Suốt hai cuộc kháng chiến, đồng chí Võ Nguyên Giáp luôn nhấn mạnh tinh thần dám đánh, quyết thắng, chỉ được thắng, liên tiếp nhấn mạnh vấn đề cách đánh sáng tạo. Đồng chí luôn luôn làm cho tư tưởng quyết thắng của dân tộc và của Đảng thấm sâu vào tim óc tướng sĩ, để từ đó, các tướng sĩ biến tư tưởng quyết thắng thành hành động quyết thắng trên chiến trường".

Nhiều tướng lĩnh làm việc trong cơ quan tham mưu Tổng hành dinh từ thời ở Việt Bắc, những người được trực tiếp giúp Đại tướng Võ Nguyên Giáp xây dựng và triển khai kế hoạch tác chiến, thường nói với nhau về vị Tổng Tư lệnh toàn năng của mình. Mọi người đều cho rằng, sự chỉ đạo tác chiến của Tổng Tư lệnh luôn theo sát thực tiễn chiến trường. Ông hiểu sâu lý luận về cách dùng binh, nhưng người ta không hề thấy Đại tướng áp dụng máy móc lý luận vào việc điều hành chiến trận. Từ thực tiễn chiến trường, ông rất coi trọng việc cùng tập thể tướng lĩnh trong cơ quan Tổng hành dinh và Bộ Chỉ huy chiến dịch bàn bạc và tìm ra cách đánh thích hợp nhất để giành thắng lợi. Trong không ít trường hợp, đặc biệt là trong một số chiến dịch có ý nghĩa chiến lược quan trọng, chính ông là người đề xuất ra cách đánh mới, khác với ý kiến số đông. Ông luôn bám sát thực tế tình hình địch, ta ở phía trước để có sự quyết đoán sáng suốt, thận trọng và kịp thời. Ông vừa là nhà chỉ huy nổi danh về đánh du kích, vừa là nhà chỉ huy kiệt xuất về đánh chính quy hợp đồng nhiều binh chủng và đặc biệt là chỉ đạo kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa chiến tranh du kích trong vùng địch hậu với chiến tranh chính quy của các đại đoàn chủ lực.

Tướng Đoàn Huyên chú ý một góc cạnh khác - lý luận quân sự Võ Nguyên Giáp: "Ông không chỉ là một vị tướng cầm quân tài giỏi mà còn là một nhà lý luận quân sự hàng đầu của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó là nét nổi bật đặc sắc của nhân vật quân sự Võ Nguyên Giáp.

Gắn liền với chiến tích và các bài học đúc kết từ thực tiễn chiến tranh cách mạng, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo tinh hoa quân sự cổ kim Đông Tây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã góp phần xuất sắc phát triển khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại mới, để lại cho thế hệ chúng ta và hậu thế một di sản lý luận quân sự quý báu, rất đáng trân trọng".

Từ kết quả nghiên cứu của mình, tôi xin nêu lên một số vấn đề nhằm làm sáng tỏ thêm các nhận định trên đây về bản lĩnh cầm quân của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất:

1. Quán triệt sâu sắc tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân

a- Triển khai thế trận toàn dân đánh giặc

Trên cơ sở quán triệt sâu sắc đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp luôn tạo điều kiện và tranh thủ mọi thời cơ triển khai thế chiến lược chiến tranh nhân dân có lợi cho ta và hãm địch vào thế chiến lược không lợi cho chúng. Điều đó không chỉ được vận dụng đầu những năm 50 của thế kỷ XX khi lực lượng so sánh ở tầm chiến lược đã chuyển hóa có lợi cho ta mà ngay từ những ngày đầu Pháp trở lại xâm lược. Động viên lực lượng vũ trang Nam Bộ phát huy thế nhân sơn nhân hải, dựa vào dân mà chiến đấu ngay khi quân Pháp mới trở lại; chỉ đạo Khu 5 phát động nhân dân vũ trang chống địch ngay từ hồi đầu năm 1946; sớm đưa lực lượng lên Tây Bắc, chuẩn bị cơ sở chính trị trong nhân dân các dân tộc Tây Bắc ngay khi tàn quân Pháp ở Vân Nam tràn về; kiên trì xây dựng lực lượng Vệ quốc đoàn đi đôi với tổ chức và huấn luyện hàng triệu dân quân tự vệ suốt 16 tháng từ sau Tổng khởi nghĩa đến trước ngày toàn quốc kháng chiến; kiên trì tìm biện pháp hữu hiệu triển khai bằng được thế toàn dân đánh giặc suốt những năm 1947 - 1949, v.v. tất cả những thực tế đó chứng tỏ: với tầm nhìn chiến lược về chiến tranh nhân dân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quán triệt và kiên trì vận dụng có hiệu quả đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh ngay từ đầu cuộc kháng chiến. Như cách nói của Đại bách khoa toàn thư Pháp: "Tư tưởng và hành động của ông không chỉ thu hẹp trong phạm vi nguyên tắc thuần túy quân sự mà dựa vững chắc vào tiền đề chính trị là sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân vào nỗ lực kháng chiến, một điều không thể thiếu trong chiến tranh giải phóng".

Nói về tư tưởng chỉ đạo nghệ thuật của chiến tranh nhân dân, trong Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: "Xuất phát từ đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự của ta trước hết là nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc. Đó cũng là sự kế thừa và phát huy lên một trình độ mới nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc. Nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc của ta là nghệ thuật chỉ đạo hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang, đồng thời chỉ đạo hoạt động quân sự của nhân dân cầm vũ khí đứng lên đánh địch, kết hợp chặt chẽ quân sự với chính trị, tác chiến với binh vận, kết hợp tiêu diệt địch với phát động quần chúng nhân dân giành quyền làm chủ".

Một trong những nét nổi bật trong tư duy quân sự Võ Nguyên Giáp là quán triệt tư tưởng tiến công của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, là khẳng định: nghệ thuật quân sự của ta chủ trương có tiến công, có phòng ngự, nhưng tiến công là chủ yếu.

Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp rất quan tâm vấn đề bảo tồn lực lượng để kháng chiến lâu dài và ông cũng là người mẫu mực trong việc giải quyết mối quan hệ giữa diệt địch và giữ mình. Theo ông, trong hai mặt đó, tiêu diệt địch là chủ yếu. Tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch trong từng chiến dịch, trong từng trận đánh, là cách chắc chắn nhất để bảo tồn lực lượng của ta. Tiến công là biện pháp trực tiếp tiêu diệt địch, đồng thời cũng là biện pháp hạn chế khả năng tiến công của địch hòng tiêu diệt lực lượng của ta. Nhìn lại cả 43 chiến dịch lớn, nhỏ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chỉ thấy ba chiến dịch phản công (Việt Bắc tháng 10-1947, sông Lô tháng 5-1949 và tây nam Ninh Bình tháng 11-1953), còn lại đều là chiến dịch tiến công. Chiến dịch truy kích ở Thượng Lào (Sầm Nưa tháng 4-1953) thực chất cũng là chiến dịch tiến công chuyển sang truy kích.

Do một trong những đặc điểm của cuộc kháng chiến của ta là lực lượng so sánh giữa quân đội ta và quân đội viễn chinh Pháp rất chênh lệch, cho nên ông Giáp luôn triển khai các chiến dịch tiến công phù hợp với trình độ trang bị và khả năng tác chiến của bộ đội ta, từ thấp đến cao, vừa đánh vừa học, càng đánh càng mạnh. Trong mấy năm đầu chiến đấu trong vòng vây, không kể trận tổng giao chiến đầu tiên trong các thành phố, thị xã và tiếp đó là chiến dịch phản công mùa khô năm 1947, suốt hơn 2 năm tiếp theo (xuân năm 1948 - hè năm 1950), dù khả năng trang bị và trình độ mọi mặt của bộ đội chủ lực còn rất hạn chế nhưng mỗi năm quân ta mở từ 5 đến 10 chiến dịch tiến công trên khắp ba chiến trường Trung - Nam - Bắc2, quy mô từ 1 trung đoàn đến 4 trung đoàn trên nhiều hướng. Thực tế đó không chỉ nói lên một biện pháp hữu hiệu trong việc luyện quân là rèn luyện cho bộ đội chủ lực trưởng thành ngay trong các chiến dịch từ nhỏ đến vừa để tiến lên đánh lớn, mà mặt khác về tư tưởng chỉ đạo, đó là biểu hiện cụ thể của tư tưởng tích cực tiến công địch. Điều cần nói rõ là, trong khoảng thời gian đó, bên cạnh hơn 20 chiến dịch nhỏ và vừa của bộ đội chủ lực, Tổng Tư lệnh đã sáng tạo ra một cách đánh rất riêng, đó là cuộc phản công chiến lược mềm, diễn ra kiên trì, bền bỉ trong vùng sau lưng địch. Đó thực chất là loại hình tiến công bằng các lực lượng vừa chính trị, vừa vũ trang, từ ban xung phong công tác, đội vũ trang tuyên truyền đến đại đội độc lập. Đối tượng tiến công của các lực lượng này là các loại lực lượng quân sự, kinh tế và chính trị (tề ngụy) của địch. Mục đích hoạt động của các lực lượng này không chỉ là tiêu hao, tiêu diệt địch mà chủ yếu là gây dựng cơ sở tạo nên "những chấm đỏ", những cơ sở chính trị hay vũ trang, công khai hoặc bí mật tồn tại trong địch hậu để duy trì cuộc đấu tranh lâu dài ngay trong "ruột địch" (như cách nói của Tổng Bí thư Trường Chinh), tạo điều kiện cho chiến tranh du kích sinh sôi nảy nở nhằm thực hiện chủ trương phát động chiến tranh du kích do Trung ương đề ra đầu năm 1948.

Rõ ràng là tư tưởng tiến công trong nghệ thuật quân sự của Đảng thể hiện trong tư duy quân sự Võ Nguyên Giáp mang đầy đủ đặc thù Việt Nam: lực lượng chính trị và vũ trang đều tiến công, quy mô lớn nhỏ cũng tiến công, dân quân du kích, bộ đội địa phương và chủ lực đều tiến công, tiến công cả ở mặt trận phía trước, cả ở trong lòng địch.

Một vấn đề liên quan trực tiếp đến tư tưởng tiến công là tư tưởng tích cực tiêu diệt sinh lực địch. Mục đích hoạt động của lực lượng vũ trang trên chiến trường là tiêu diệt lực lượng địch, làm chủ chiến trường, thu vũ khí. Muốn vậy, phải đánh tiêu diệt. Do tương quan lực lượng và do trình độ tác chiến của bộ đội chủ lực trưởng thành từng bước, cho nên Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã dẫn dắt bộ đội chủ lực quán triệt dần dần tư tưởng tích cực tiêu diệt địch từ thấp đến cao cho phù hợp với từng bước trưởng thành của bộ đội chủ lực và đáp ứng yêu cầu ngày càng nâng lên của từng giai đoạn chiến lược.

Trong cuộc tổng giao chiến cuối năm 1946 - đầu năm 1947 yêu cầu đặt ra trước hết là tiêu hao và kìm chân địch trong các thành phố và thị xã, tạo không gian và thời gian cho cả nước chuyển từ thời bình sang thời chiến một cách vững chắc. Yêu cầu đề ra trong xuân - hè năm 1947 là tiêu hao địch, đồng thời phải giữ gìn được lực lượng ta, không để tan rã, khắc phục hiện tượng "vỡ mặt trận" khi địch đánh rộng ra. Đến tháng 6-1947, trong 11 nguyên tắc chỉ đạo tác chiến lần đầu tiên đề ra trong Hội nghị quân sự lần thứ ba, Tổng Tư lệnh nhấn mạnh nguyên tắc đánh tiêu diệt. Tuy nhiên, trước sức mạnh tiến công của địch mùa khô năm 1947 lên căn cứ địa, yêu cầu đặt ra trước hết là tiêu hao địch, bảo toàn được khối chủ lực, bảo vệ được căn cứ địa và cơ quan lãnh đạo kháng chiến. Sau cuộc thử thách trong Chiến dịch Việt Bắc, tiếp đó là sau mấy đợt luyện quân lập công xuân - hè năm 1948, đến tháng 8 năm đó, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra Huấn lệnh chuyển từ tiêu hao chiến sang tiêu diệt chiến. Huấn lệnh phân tích vì sao phải chuyển sang đánh tiêu diệt và chỉ ra những biện pháp xây dựng về tinh thần tư tưởng, tổ chức lực lượng, tập trung trang bị và về cách đánh phù hợp để đạt yêu cầu tiêu diệt (chú trọng đánh địch ngoài vị trí, đang vận chuyển tiếp tế tăng viện, hình thức chủ yếu là phục kích và vận động phục kích). Riêng đối với cán bộ, huấn lệnh nhấn mạnh: muốn đánh tiêu diệt được thì phải có kế hoạch linh hoạt đi đôi với tinh thần tích cực quyết tâm.

Hơn hai năm rèn luyện bộ đội chủ lực bằng tiến hành các chiến dịch nhỏ là cả quá trình Tổng Tư lệnh chỉ đạo cuộc đấu tranh cả về tư tưởng, tinh thần và tác phong chiến đấu nhằm hướng vào yêu cầu tiêu diệt địch, nhất là tiêu diệt gọn trong từng trận đánh. Từ cuối năm 1950, chuyển sang đánh lớn, yêu cầu đó càng được nhấn mạnh trong chuẩn bị chiến dịch. Kết thúc mỗi chiến dịch, một trong những vấn đề được Tổng Tư lệnh nêu lên (biểu dương hoặc phê bình) cũng là có thực hiện được đánh tiêu diệt hay không. Mọi trường hợp không tiêu diệt gọn hoặc bỏ lỡ thời cơ diệt địch đều bị phê phán nghiêm khắc. Trải qua hơn 10 chiến dịch lớn (thu - đông năm 1950, xuân - hè năm 1954) điển hình đầu tiên về đánh tiêu diệt quy mô lớn trong một chiến dịch có ý nghĩa quan trọng tạo nên bước ngoặt chiến lược là Chiến dịch Lê Hồng Phong 2 (tức Chiến dịch Biên giới - diệt 8 tiểu đoàn địch); đỉnh cao của một chiến dịch đánh tiêu diệt quy mô lớn nhất trong cả cuộc kháng chiến chống Pháp dẫn đến kết thúc cuộc kháng chiến lần thứ nhất là Chiến dịch Điện Biên Phủ (diệt 17 tiểu đoàn).

b- Thường xuyên nắm vững và phát huy vai trò chiến lược của ba thứ quân và của hai hình thức chiến tranh: du kích và chính quy

Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp luôn đánh giá đúng tầm vóc và coi trọng vai trò chiến lược của cả hai hình thức chiến tranh: chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy và thường xuyên chỉ đạo phối hợp chặt chẽ giữa hai hình thức đó trên nền tảng chính trị của toàn dân đánh giặc. Như Đại tướng Anh P.Mắc Đônan nhận xét: "Trong mọi lĩnh vực chiến tranh, khó có một tướng soái nào có thể so sánh với ông trong việc kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy ở một trình độ cao. Sự kết hợp này xưa nay chưa từng có".

Trong điều kiện Việt Nam, để kết hợp được hai hình thức chiến tranh du kích và chính quy, Tổng Tư lệnh đã chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích.

Trong chỉ thị về việc thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Cụ Hồ đã đề cập một vấn đề rất cơ bản, là lực lượng vũ trang cách mạng phải bao gồm đội quân chủ lực và các lực lượng vũ trang địa phương. Ông Giáp đã vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng không chỉ trong những ngày khởi nghĩa vũ trang mà nhất là trong suốt 30 năm chiến tranh giải phóng.

Sau Cách mạng Tháng Tám, trải qua 16 tháng khẩn trương xây dựng, bộ đội chủ lực bước vào kháng chiến toàn quốc với hai tuổi đời. Dù lúc này quân số đã lên đến 8 vạn và đã trở thành Quân đội quốc gia, nhưng Vệ quốc đoàn thực chất vẫn chỉ là một đội du kích, được tổ chức quy mô tiểu đoàn và trung đoàn. Qua Chiến dịch Việt Bắc, dù bộ đội chủ lực đã lớn lên một bước rất quan trọng theo quy luật phát triển mà Cụ Hồ đánh giá là "như suối mới chảy, như lửa mới nhen", nhưng về nhiều mặt, Vệ quốc đoàn thực chất vẫn còn là một đội quân du kích.

Nếu mùa khô năm 1947 từ thực tế yêu cầu của chiến trường, Tổng Chỉ huy sáng tạo ra phương thức tổ chức và cũng là phương thức hoạt động của đại đội độc lập - tiểu đoàn tập trung để vừa phát động chiến tranh du kích, vừa rèn luyện bộ đội chủ lực tập đánh tập trung, thì đầu năm 1949, Tổng Chỉ huy lại đứng trước một yêu cầu mới: làm thế nào để đẩy mạnh hơn nữa vận động chiến? Quá trình chỉ đạo đẩy mạnh vận động chiến phải là quá trình tập trung dần các đại đội độc lập trở về tổ chức biên chế của các tiểu đoàn, trung đoàn, để có bộ đội tập trung quy mô lớn hơn, mở những chiến dịch quy mô lớn hơn. Nhưng làm thế nào "gọi" các đại đội độc lập về với bộ đội chủ lực mà không phương hại đến phong trào du kích địa phương? Làm thế nào để khắc phục hiện tượng một số địa phương và đơn vị vội rút đại đội độc lập về với chủ lực trong khi phong trào du kích chiến tranh chưa phát triển đủ mạnh, chưa đủ sức đảm nhiệm nhiệm vụ bảo vệ địa phương? Trong chỉ đạo xây dựng và tác chiến trong lúc này, Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã chú trọng "điều hòa" giữa yêu cầu tập trung đánh lớn với yêu cầu có lực lượng đủ sức duy trì chiến tranh du kích ở địa phương. Các địa phương được lệnh chọn lọc trong hàng ngũ du kích những cán bộ và chiến sĩ đủ điều kiện tổ chức ra một lực lượng thoát ly sản xuất, chiến đấu tại chỗ ở địa phương và do địa phương đài thọ. Quy mô phổ biến là đại đội ở cấp huyện, tiểu đoàn ở cấp tỉnh. Trên cơ sở đó, tháng 4-1949, theo sắc lệnh của Chính phủ, bộ đội địa phương chính thức ra đời và từ đấy, lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam bao gồm ba thứ quân là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, với vị trí chiến lược, nhiệm vụ và mối quan hệ phối hợp được xác định cụ thể cho từng thứ quân.

Tại Hội nghị dân quân, tháng 5-1949, trả lời phỏng vấn của báo Quân du kích: Thế nào là bộ đội địa phương, bộ đội địa phương và dân quân, du kích khác nhau như thế nào, Đại tướng Tổng Tư lệnh nói3: "Dân quân có tính địa phương nhưng không có tính chất bộ đội. Có nhiều khi những bộ phận quân đội đi làm nhiệm vụ của bộ đội địa phương nhưng vẫn là đơn vị quân đội chính quy. Cũng có khi bộ đội vẫn còn nhiều tính địa phương, như ở Nam Bộ.

Bộ đội địa phương đã thoát ly sản xuất (khi đó ông dùng từ "sinh sản") ở xã, có kỷ luật hẳn hoi, sinh hoạt tập thể, có tính chất của một bộ đội (nhưng không phải không có kế hoạch tăng gia sản xuất). Đồng thời nó lại chưa phải làm nhiệm vụ chung của bộ đội chính quy. Trình độ phát triển của nó, nói chung còn kém bộ đội chính quy và có tính địa phương, tức là bảo vệ địa phương, đồng thời nhiệm vụ của nó đối với dân quân xã rất nặng. Bộ đội địa phương còn có tính địa phương nữa, là về mặt trang bị cấp dưỡng do địa phương phụ trách".

Như vậy là, từ chỉ thị chung của Cụ Hồ về hai lực lượng chủ lực và địa phương hồi thành lập Đội Quân giải phóng cuối năm 1944, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng vào điều kiện thời chiến, từng bước đáp ứng yêu cầu của chiến trường và cuối cùng đã tìm ra phương thức tốt nhất, độc đáo của Việt Nam, đó là ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích. Về định nghĩa từng thứ quân, trong Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết:

Dân quân tự vệ là lực lượng đông đảo quần chúng vũ trang thường xuyên và có tổ chức ở cơ sở, không thoát ly sản xuất. Nó là công cụ bạo lực của Đảng và chính quyền nhân dân ở cơ sở, do đảng ủy cơ sở trực tiếp lãnh đạo, do cơ quan quân sự ở cơ sở trực tiếp chỉ huy, dưới sự lãnh đạo của cơ quan quân sự cấp trên. Nó được tổ chức theo thôn, xã, xí nghiệp, đường phố phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu, điều kiện và đặc điểm của từng địa phương, hình thành một lực lượng vững mạnh và rộng khắp trên cả nước, sẵn sàng đánh giặc bằng mọi thứ vũ khí thích hợp, từ thô sơ đến hiện đại.

Bộ đội địa phương là một bộ phận quân đội thường trực ở tại địa phương, do cấp ủy đảng địa phương trực tiếp lãnh đạo, do cơ quan quân sự địa phương trực tiếp chỉ huy dưới sự lãnh đạo của cơ quan quân sự cấp trên. Nó là lực lượng tập trung cơ động của địa phương, cùng dân quân, tự vệ làm nòng cốt cho phong trào chiến tranh nhân dân ở địa phương, làm công cụ của chính quyền cách mạng ở địa phương. Nó được xây dựng thích hợp với nhiệm vụ và điều kiện thực tế của từng chiến trường và từng địa phương, tổ chức thành những đơn vị mạnh có chất lượng cao, có các binh chủng cần thiết, có khả năng tác chiến tập trung trong địa phương.

Bộ đội chủ lực là bộ phận quan trọng nhất của quân đội thường trực, là lực lượng cơ động, lực lượng nòng cốt để hoàn thành các nhiệm vụ chiến lược trên chiến trường toàn quốc và các chiến trường khác. Bộ đội chủ lực cần giúp đỡ và đoàn kết hiệp đồng với bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ. Bộ đội chủ lực do Trung ương Đảng (thông qua Quân ủy Trung ương) trực tiếp lãnh đạo, do Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy.

Với ba lực lượng chiến lược hình thành hoàn chỉnh trong hệ thống lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam và phối hợp chặt chẽ với nhau trên quy mô chiến lược, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp có đầy đủ điều kiện để tiến hành hai hình thức chiến tranh, hai hình thức tác chiến: du kích và chính quy.

1. Về chiến tranh du kích

Nói về tác dụng và địa vị chiến lược của chiến tranh du kích, trong Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: "Chiến tranh du kích phát huy tác dụng chiến lược rất to lớn trong việc tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận nhỏ quân địch, góp gió thành bão, gây cho địch những tổn thất và khó khăn nghiêm trọng. Chiến tranh du kích còn có tác dụng kiềm chế và phân tán cao độ lực lượng địch, khiến chúng ngày càng bị sa lầy, bị cột chặt vào mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung; bao vây chia cắt địch khắp nơi, làm rối loạn thế bố trí chiến lược của chúng, tạo nên thế chiến lược có lợi cho ta, tạo điều kiện thuận lợi cho tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực".

Ở trong vùng sau lưng địch: "bám đất giữ dân, bảo vệ cơ sở của mọi lực lượng chiến tranh nhân dân ở nước ta là một vấn đề sinh tử. Muốn vậy, cần phải có chiến tranh du kích mạnh mẽ ở cơ sở, phải vũ trang quần chúng đánh địch tại chỗ, thực hiện "một tấc không đi, một ly không rời" mới bảo vệ và rèn luyện được quần chúng cách mạng, bảo vệ nguồn sức người sức của của ta".

Qua thực tế diễn biến của cuộc kháng chiến chống Pháp, chúng ta đã thấy Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp luôn quan tâm đến việc vũ trang toàn dân, kiên trì triển khai thế toàn dân đánh giặc bằng phương thức phát động rộng rãi chiến tranh du kích. Đây chính là một trong những biện pháp chiến lược hữu hiệu nhất để hạn chế sức mạnh quân sự của địch, dù là khi chúng tập trung để tiến công hay dàn ra để khống chế kìm kẹp vùng tạm chiếm.

Ngay từ khi Pháp mới trở lại gây hấn, ta gặp khó khăn do tương quan lực lượng rất chênh lệch, ông Giáp đã chỉ ra phương hướng hành động cho quân, dân Nam Bộ: ở những nơi không có rừng có núi thì lực lượng vũ trang dựa vào nhân sơn nhân hải (nói nôm na là hòa vào trong dân) mà duy trì cuộc chiến đấu. Tiếp đến mấy tháng đầu năm 1946 khi việc giải giáp quân Nhật ở miền Nam đã xong, quân Nhật đã hồi hương, quân Anh đã rút về nước, phạm vi chiếm đóng mà quân Anh "bàn giao lại" rất rộng, sau đó Pháp lại phải đưa một bộ phận quan trọng quân viễn chinh ra Bắc sau Hiệp định sơ bộ, nên quân Pháp ngày càng lâm vào khủng hoảng quân số nghiêm trọng. Pháp đã bắt đầu tuyển mộ quân đội tay sai, nhưng không những đà tiến công mở rộng phạm vi chiếm đóng đã bị chững lại mà rất nhiều nơi, kể cả nhiều vùng ven đô và đường giao thông chiến lược, thế chiếm đóng của quân Pháp bị căng mỏng, rất sơ hở. Đó là thời cơ mà Chủ tịch Quân sự ủy viên hội Võ Nguyên Giáp động viên khuyến khích quân và dân miền Nam thực hiện chủ trương "khởi nghĩa lại", khôi phục quyền làm chủ nhiều vùng, tạo nên một cục diện ngày càng có lợi cho ta từ mùa hè năm 1946. Do thiếu binh lực nên địch phải bó tay không cưỡng nổi một thực tế là chiến tranh du kích đã xuất hiện ở nhiều vùng nông thôn miền Nam. Cho đến khi Nam Bộ cùng với toàn dân bước vào cuộc kháng chiến trên quy mô cả nước thì, với một thế mới, lực mới, cục diện miền Nam đã được cải thiện rất nhiều so với hồi Pháp mới gây hấn. Cũng khoảng đầu năm 1946, ông lại chỉ cho các cấp chỉ huy ở Nam Trung Bộ đưa binh lực luồn vào vùng sau lưng địch, phát động nhân dân, bám lấy dân để đánh địch, từng bước gây dựng cơ sở chính trị và vũ trang trong vùng tạm bị chiếm, tiến lên phát động chiến tranh du kích, trước hết là trên địa bàn rừng núi miền tây. Ngay từ những ngày đầu của kháng chiến toàn quốc, vấn đề triển khai thế toàn dân đánh giặc, từng bước chuyển sang du kích vận động chiến, tiêu hao địch rộng rãi và buộc quân Pháp phải căng kéo binh lực đối phó khắp nơi, luôn là một trong những việc được Tổng Chỉ huy đặt lên hàng đầu. Qua thực tế chỉ đạo của Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp trong mùa khô năm 1947, chúng ta thấy ông sớm quan tâm đặc biệt đến phong trào du kích.

Trung tuần tháng 11-1947, khi cuộc tiến công của địch đang diễn ra trên nhiều địa phương trong căn cứ Việt Bắc, trong huấn lệnh Phát động du kích chiến tranh - nhiệm vụ quân sự căn bản trong giai đoạn này, Tổng Chỉ huy đã khẳng định cần phải có một nhận định vững chắc "du kích chiến tranh là căn bản". Ông phân tích tính bức thiết phải phát động chiến tranh du kích để đối phó với chiến tranh lan rộng và đối phó với chiến thuật mới của địch. Chỉ có phát động được chiến tranh du kích rộng rãi thì lực lượng vũ trang địa phương mới thực hiện được hai nhiệm vụ:

- Về chính trị: giữ vững cơ sở nhân dân. Do vũ trang tuyên truyền, trừ gian diệt địch, giúp dân mà làm cho tinh thần kháng chiến của nhân dân càng cao, giữ và củng cố được cơ sở chính trị của cuộc kháng chiến toàn dân.

- Về quân sự: du kích không những tiêu hao được địch, góp những thắng lợi nhỏ thành một thắng lợi lớn mà còn cướp được súng đạn của địch để tự vũ trang cho mình. Đấy là điều kiện tất yếu, làm cho du kích càng đánh càng mạnh. Vũ khí của quân du kích là ở trong tay địch. Đó là phương pháp chủ yếu để giải quyết vấn đề trang bị cho du kích của tất cả các nước nhược tiểu.

Tổng Chỉ huy kiểm điểm lại kết quả và những thiếu sót trong việc thực hiện chủ trương phát động chiến tranh du kích trong thời gian qua đồng thời chỉ ra những việc cần làm ngay để đẩy mạnh chiến tranh du kích, bao gồm cả sự quan tâm chỉ đạo của chính quyền địa phương, việc kiện toàn tổ chức và xác định đúng phương thức hoạt động. Tổng Chỉ huy nhấn mạnh: "Về chiến thuật, đã là du kích thì phải đánh du kích thì mới có thể tiến mạnh lên được. Nên sửa chữa cái lối đánh chính quy, ham đánh trận lớn, lấy cớ tập trung hỏa lực để tiêu phí đạn dược".

Huấn lệnh chỉ ra các hình thức hoạt động như quấy rối, phá hoại, trừ gian - phòng gian, tìm mọi cách tiêu diệt từng bộ phận nhỏ của địch và phối hợp tác chiến với bộ đội. Hoạt động của du kích phải quán triệt tinh thần tích cực, bí mật, nhanh chóng, tránh mạo hiểm, thực hiện càng đánh càng mạnh.

Nhưng vì sao tất cả sự quan tâm của Tổng Chỉ huy chưa đem lại kết quả trong mùa khô năm 1947? Trong báo cáo tổng kết Chiến dịch Việt Bắc, khi đánh giá phong trào chiến tranh du kích, Tổng Chỉ huy nhận xét rằng trong mệnh lệnh tác chiến ngày 4-10 phương châm đề ra thì đúng nhưng không cụ thể4. Do đó, chiến tranh du kích không phát động được. Du kích khá đến đâu nhưng khi địch tới mà không có bộ đội là mất tinh thần, không chiến đấu được. Vì vậy phải có một bộ phận bộ đội phân tán cùng đánh du kích để dìu dắt dân quân. Phải bằng chỉ thị bổ cứu ngày 27-10, Tổng Chỉ huy mới xác định được cụ thể phương thức tổ chức, nhiệm vụ và hình thức hoạt động của đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung5. Đại đội độc lập ra đời và phát huy tác dụng "bà đỡ" đối với phong trào du kích chiến tranh, chính là bắt nguồn từ yêu cầu thực tế của chiến trường được Tổng Chỉ huy nhạy bén nắm bắt và nâng lên thành phương châm tổ chức và hoạt động của hai lực lượng chủ lực và địa phương trong Chiến dịch Việt Bắc: đại đội độc lập - tiểu đoàn tập trung.

Và từ năm 1948, khi đã tìm được biện pháp hữu hiệu là phái các đại đội độc lập đi sâu vào vùng tạm bị chiếm để phát động chiến tranh du kích, cũng tức là thời điểm Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã đạt được chủ định chiến lược của mình là tạo điều kiện cụ thể cho lực lượng vũ trang địa phương phát huy tác dụng diệt địch trên cơ sở chính trị vững chắc của thế toàn dân đánh giặc, thế chiến lược chiến tranh nhân dân đã buộc địch phải không ngừng căng kéo lực lượng và ngày càng lún sâu vào mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán binh lực. Tất nhiên không phải là hoạt động những ngày đầu của các đại đội độc lập trong các vùng tạm chiếm đều thuận lợi như nhau. Có những địa bàn khó khăn đặc biệt như Tây Bắc, ngoài việc phái những đơn vị Tây tiến lên, Tổng Chỉ huy còn chỉ đạo Liên khu 10 phối hợp với lực lượng chính trị và vũ trang kháng chiến Lào tìm nhiều biện pháp hết sức tích cực, sáng tạo và phải trải qua một thời gian dài kiên trì chỉ đạo mới thực hiện được chủ trương phát động chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa Tây Bắc.

Từ khoảng mùa hè năm 1948, chiến tranh du kích phát triển từng bước trong cuộc phản công chiến lược mềm vào vùng sau lưng địch đã dần dần phát huy tác dụng phối hợp với các chiến dịch của bộ đội chủ lực.

2. Về chiến tranh chính quy

Do lực lượng so sánh giữa ta và địch trong thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh giải phóng, với những đội vũ trang nhỏ bé, trang bị kém, chúng ta chỉ có thể bắt đầu bằng chiến tranh du kích. Nhưng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp không dừng lại ở chiến tranh du kích mà đã dẫn dắt toàn quân từng bước tiến lên chiến tranh chính quy vì, như sau này Đại tướng viết trong Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng: "Chỉ có chiến tranh chính quy, trong đó bộ đội chủ lực tác chiến tập trung, hiệp đồng binh chủng, cùng phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân tự vệ và lực lượng chính trị của toàn dân, mới tiêu diệt được những lực lượng quan trọng của địch, mới giải phóng được những vùng đất đai rộng lớn, giành được thắng lợi ngày càng lớn".

Nhất thiết bộ đội chủ lực phải tiến lên tác chiến chính quy, nhưng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp không nóng vội, ông khẳng định phải đi từng bước vững chắc.

Thắng lợi của năm đầu kháng chiến toàn quốc (ở các thành phố và thị xã lúc đầu cũng như sau đó trong Chiến dịch Việt Bắc) được coi là thắng lợi của bộ đội chủ lực (Vệ quốc đoàn), nhưng còn mang nặng tính du kích. Thực tế đó đã được Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp phân tích rất rõ trong báo cáo tổng kết Chiến dịch Việt Bắc. Sau đó trải qua một thời gian khá dài, tính du kích được Vệ quốc đoàn "mang vào" các chiến dịch nhỏ. Nhờ phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của Tổng Quân ủy và Tổng Chỉ huy luôn bám sát thực tế và đặc biệt coi trọng việc chỉ đạo sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm từng chiến dịch nhỏ, cho nên quá trình phát triển của các chiến dịch nhỏ cũng là quá trình "tính tập trung, chính quy tăng dần, tính du kích, phân tán giảm dần", nhằm từng bước thực hiện bằng được chủ trương chiến lược chuyển sang du kích vận động chiến đề ra từ đầu năm 1947.

Về mặt học thuật, khái niệm du kích vận động chiến là một khái niệm mang tính quá độ trong quá trình phát triển từ tác chiến du kích với binh lực nhỏ tiến lên tác chiến chính quy với những lực lượng ngày càng lớn6. Du kích vận động chiến là một sáng tạo của Việt Nam được Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp vận dụng từng bước ngay từ những ngày đầu kháng chiến toàn quốc và trong suốt quá trình đưa bộ đội tiến từ tác chiến du kích lên tác chiến chính quy. Cùng với sự ra đời của đại đội độc lập trong Chiến dịch Việt Bắc, tiểu đoàn tập trung xuất hiện mùa khô năm 19477 với cách đánh tập trung quy mô nhỏ đã đóng vai trò chủ yếu trong Chiến dịch Việt Bắc. Sau mùa khô năm 1947 là cả một quá trình kiên trì rèn luyện bộ đội chủ lực từng bước qua mấy chục chiến dịch nhỏ và vừa trong suốt 3 năm (1948 - 1950). Trong quá trình đó, Tổng Chỉ huy quan tâm chỉ đạo và động viên ngành quân giới "thi đua cải tiến kỹ thuật", sản xuất những vũ khí có sức công phá mạnh, khả năng tiêu diệt lớn (hồi đó gọi là vũ khí công đồn) nhằm từng bước cải tiến trang bị cho bộ đội chủ lực theo yêu cầu quy mô tác chiến ngày càng lớn. Mở đầu đánh lớn từ mùa khô năm 1950, tiếp đó trải qua các mùa chiến dịch, các đại đoàn đã thực hiện xuất sắc chỉ thị của Tổng Tư lệnh là "đánh đâu thắng đấy - quyết định chiến trường". Được như vậy, một yếu tố quan trọng là có sự phối hợp ngày càng chặt chẽ giữa các chiến dịch của chủ lực ở phía trước với chiến tranh du kích trong vùng sau lưng địch.

3. Kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy

Thực tế 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp cho thấy chiến tranh du kích là cơ sở hình thành và phát triển của chiến tranh chính quy. Chiến tranh du kích sinh sôi nảy nở là điều kiện thuận lợi để chiến tranh chính quy phát huy tác dụng và không ngừng phát triển. Ngược lại, chiến tranh chính quy phát triển, giành thắng lợi ngày càng lớn trong các chiến dịch tiến công và phản công địch, mới tạo điều kiện cho chiến tranh du kích tồn tại vững chắc và không ngừng mở rộng. Ba thứ quân kết hợp chặt chẽ với nhau, hai hình thức chiến tranh hỗ trợ thúc đẩy lẫn nhau và cùng kết hợp với các hình thức đấu tranh khác của toàn dân mới tạo được sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân.

Trong Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: "Trong chiến tranh giải phóng lâu dài, chiến tranh du kích phải tiến lên chiến tranh chính quy. Chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích phải kết hợp chặt chẽ với nhau. Đó là quy luật giành thắng lợi của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh nhân dân ở nước ta".

Không những Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp coi trọng cả hai hình thức chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy mà ông còn nắm vững quy luật phát triển và mối quan hệ tất yếu giữa hai hình thức chiến tranh đó trong chiến tranh cách mạng Việt Nam. Thực tế chỉ rõ, khi chiến tranh du kích đã tiến lên chính quy và phát triển trong các chiến dịch tiến công quy mô ngày càng lớn rồi, Tổng Tư lệnh vẫn không hề xem nhẹ chiến tranh du kích. Trái lại, ngay trong những năm 1953 - 1954, khi chiến tranh chính quy đã phát triển tới trình độ cao nhất trong kháng chiến chống Pháp, vai trò của chiến tranh du kích (nhất là trong vùng trọng điểm là đồng bằng Bắc Bộ) càng được coi trọng, nhờ đó chiến tranh du kích đã phát huy tác dụng phối hợp rất có hiệu quả, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho các chiến dịch tiến công của bộ đội chủ lực giành thắng lợi ngày càng lớn.

Để đưa chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy và tạo điều kiện cho chiến tranh du kích có thể kết hợp chặt chẽ với chiến tranh chính quy, ngay từ đầu Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã chọn thời cơ và phương thức thích hợp, đó là vào thời điểm chiến tranh du kích đã trải qua nhiều năm được kiên trì phát động, nhất là sau khi bộ đội địa phương đã chính thức được thành lập và đã đứng vững trên vị trí nòng cốt cho chiến tranh du kích trên nhiều địa bàn chiến lược, đồng thời là thời điểm bộ đội chủ lực đã trải qua những bước rèn luyện và trưởng thành trong tác chiến tập trung quy mô trung đoàn và nhiều trung đoàn trong các chiến dịch tiến công. Thực tế cho thấy, chỉ có trải qua những năm kiên trì phát động chiến tranh du kích cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trên các địa bàn chiến lược trong toàn quốc, nhất là trên những địa bàn chiến lược quan trọng trên chiến trường chính Bắc Bộ, đi đôi với việc rèn luyện cho bộ đội chủ lực trưởng thành từng bước trong tác chiến tập trung quy mô nhỏ và vừa, mới tạo được điều kiện thuận lợi cho việc kết hợp có hiệu quả giữa hai hình thức tác chiến chính quy và du kích, cũng tức là mới kết hợp được giữa bộ đội chủ lực trên các hướng mở chiến dịch với hoạt động phối hợp rộng khắp của lực lượng vũ trang địa phương trong vùng sau lưng địch trên toàn quốc, buộc địch phải đối phó trên nhiều hướng. Thực tế cũng chỉ rõ, trong một chiến dịch nào đó (ví dụ Chiến dịch Trung du), do chiến dịch không phát triển thuận lợi, nên việc thúc đẩy chiến tranh du kích trên các vùng tạm bị chiếm và ngay cả trên địa bàn chủ lực mở chiến dịch (Vĩnh Yên) cũng gặp khó khăn. Ngược lại, trên một chiến trường nào đó (ví dụ Đông Bắc trước năm 1949), chiến tranh du kích chưa được mở rộng, lực lượng vũ trang địa phương đứng chân chưa vững thì bộ đội chủ lực phải trải qua những bước chuẩn bị rất công phu mới tạo được chỗ đứng chân để mở chiến dịch.

2. Xuất phát từ thực tế, kịp thời phát hiện chỗ mạnh, chỗ yếu của địch để quyết định phương thức hành động đúng, bảo đảm giành thắng lợi

Một yêu cầu quan trọng đối với người cầm quân mà Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp luôn đòi hỏi ở cán bộ chỉ huy cấp dưới là phải đánh giá đúng tình hình, đánh giá đúng so sánh lực lượng địch - ta một cách khách quan, toàn diện, theo quan điểm thực tiễn và biện chứng. Quân viễn chinh xâm lược thường mạnh hơn ta về quân số và trang bị kỹ thuật nhưng do cuộc chiến tranh của chúng là xâm lược phi nghĩa nên chúng thua kém ta về chính trị tinh thần. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của ta là chính nghĩa, cho nên ta phát huy được tinh thần dũng cảm và mưu trí sáng tạo của toàn dân, toàn quân, phát huy mọi thứ trang bị có trong tay, từ thô sơ đến hiện đại, không những chúng ta ưu thế tuyệt đối về chính trị tinh thần mà còn ưu thế về sức mạnh tổng hợp của toàn dân. Chính nhờ ưu thế của chiến tranh nhân dân, ưu thế của thế chiến lược ba thứ quân mà quân và dân ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng, dù trong điều kiện ta luôn ở vào thế lấy yếu đánh mạnh về chiến lược trong cả cuộc kháng chiến chống Pháp.

Vấn đề đặt ra là đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu và cách đánh sở trường của ta, chỗ mạnh, chỗ yếu và cách đánh sở trường của địch như thế nào, để có thể lấy cái mạnh của ta đánh thắng cái yếu của chúng, làm thất bại mọi âm mưu cả về chiến lược và chiến dịch của Bộ Chỉ huy quân viễn chinh. Điều này đòi hỏi trí thông minh, sự nhạy bén, sắc sảo, nhất là trong những tình huống khẩn trương, để xác định phương thức chiến tranh, phương thức tác chiến đúng đắn, thích hợp, để giành thắng lợi. Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã nêu một tấm gương cho cán bộ chỉ huy các cấp về việc điều tra nắm vững tình hình mọi mặt của ta và của địch. Chính các đối thủ trước đây của ông - như Đại tướng Mỹ Oétmolen - cũng đã tìm thấy ở Võ Nguyên Giáp "những đức tính của một thống soái quân sự cỡ lớn, đó là trí thông minh, khả năng suy nghĩ và hành động". Nét đặc sắc về tầm nhìn chiến lược (và cả chiến dịch) của ông Giáp về đánh giá tình hình luôn mang tính biện chứng, mang dấu ấn một tư duy thực tiễn, lôgích. Với tầm nhìn đó, trong cái mạnh thậm chí rất mạnh của địch, ông vẫn tìm thấy điểm yếu rất cơ bản của chúng; trong cái yếu của địch, ông tìm ra điều kiện khiến chúng có thể dựa vào để hạn chế và khắc phục chỗ yếu của chúng, để có khi trở thành mạnh. Dưới con mắt của ông, cái yếu, cái mạnh của địch (và của ta) không cố định, không bất biến.

a- Về chỉ đạo chiến lược

Nét đặc sắc nhất mà qua nghiên cứu bản lĩnh cầm quân của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp người ta dễ nhận thấy, là ông luôn phát hiện rất sớm những mâu thuẫn cơ bản về chiến lược (và chiến dịch) của địch và kiên quyết dùng mọi biện pháp thích hợp khoét sâu những mâu thuẫn ấy để giành thắng lợi.

Tổng Chỉ huy Pháp đầu tiên, Đại tướng Lơcle sang tái chiếm Đông Dương với phương hướng chiến lược rút ra từ cuộc chiến tranh xâm lược cuối thế kỷ XIX của Lyôtây (Louis Lyautey): chia cuộc chiến thành hai bước rõ rệt: đánh chiếm (occupation) và bình định (pacification). Riêng Nam Bộ và Nam Trung Bộ, Lơcle dự kiến đánh chiếm nhanh rồi chuyển sang bình định chỉ trong vòng mấy tuần. Nhưng rồi thực tế cho thấy đó chỉ là ảo tưởng. Tình hình đất nước Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám đã thay đổi, nên ông ta buộc phải điều chỉnh và cụ thể hóa kế hoạch thêm một bước: Đánh chiếm và bình định miền Nam trước, miền Bắc sau; Miên, Lào trước, Việt Nam sau.

Ngay từ hồi đó, nói chuyện ở Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (6-1946) và Trường Bổ túc quân sự Tông (8-1946), ông Giáp đã căn cứ vào thực tế chiến trường miền Nam nêu lên nhận xét rằng Lơcle đã dựa vào đặc điểm địa lý và dân cư của ta và khả năng hạn chế của nước Pháp mà đề ra kế hoạch như vậy. Tuy Pháp là một nước mạnh, nhưng mạnh trong thế yếu sau Thế chiến 2, còn đất nước ta ngày nay không còn là đất nước Việt Nam hồi cuối thế kỷ XIX. Cuộc kháng chiến lâu dài của ta sẽ đẩy quân Pháp vào mâu thuẫn không tránh khỏi giữa tập trung quân để đánh chiếm với rải quân ra để phòng ngự giữ đất. Thực tế sau này đã chứng minh điều tiên đoán đó của ông Giáp là đúng cũng như chứng minh hiệu quả các biện pháp chiến lược của ông nhằm khoét sâu các mâu thuẫn chiến lược của địch.

Cục diện chiến trường suốt 9 năm cho thấy: Cuộc chiến tranh nhân dân của ta ngày càng phát triển không cho phép quân Pháp tập trung binh lực giải quyết xong vấn đề đánh chiếm rồi thảnh thơi dàn binh lực ra để bình định, kìm kẹp. Trái lại, ngay trong quá trình đánh chiếm, địch đã bị đánh trả ở các quy mô khác nhau, dưới nhiều hình thức khác nhau, bởi nhiều lực lượng kháng chiến khác nhau, buộc chúng phải căng kéo lực lượng ra đối phó làm cho sức mạnh của các lực lượng tiến công của địch không còn nguyên vẹn. Sau mỗi cuộc hành binh đánh chiếm, dù quân Pháp chiếm đóng và kiểm soát một địa bàn nào đó chúng cũng không hoàn toàn làm chủ nếu không rải quân ra hàng loạt đồn bốt để khống chế, kìm kẹp nhân dân. Ngay hệ thống tháp canh mà Tướng Đờ La Tua ken dày ở Nam Bộ những năm 1948 - 1950 cũng không giúp chúng hoàn toàn kiểm soát được tình hình, nhất là về ban đêm. Mặt khác, càng rải quân ra thì nạn khủng hoảng quân số càng thêm trầm trọng, vừa không đủ quân để bảo vệ có hiệu quả vùng tạm chiếm, càng không còn binh lực để tiếp tục các cuộc hành quân đánh chiếm. Trên thực tế, trong suốt 9 năm, địch không hoàn toàn làm chủ được địa bàn nào do chúng tạm chiếm. Khác với vùng sau lưng địch trên đất Trung Hoa trong kháng chiến chống Nhật cũng như trong nội chiến, vùng sau lưng địch của ta không phải là "vùng trắng", vì sự xuất hiện và tồn tại rất sớm những cơ sở chính trị hay vũ trang bí mật. Sớm muộn những "lõm" chính trị và vũ trang đó sẽ trở thành những khu du kích rồi căn cứ du kích trong lòng địch. Chính vì sớm khẳng định điều này nên ngay từ hồi tháng 5-1946, tại Hội nghị Đà Lạt, ông Giáp đã vạch trần trước Phái đoàn Pháp rằng lời tuyên bố của Tướng Lơcle hồi tháng 3-1946 nói rằng "miền Nam Việt Nam đã bình định xong" chỉ là một lời lừa bịp.

Mâu thuẫn giữa tập trung quân để đánh chiếm với rải quân ra phòng ngự giữ đất đã bộc lộ từ đầu năm 1946 ở Nam Bộ, khi quân Nhật đã hồi hương, quân Anh đã rút về nước, diện chiếm đóng của quân Pháp ở miền Nam đã rộng, Bộ Chỉ huy Pháp lại phải đưa một bộ phận quan trọng của Sư đoàn 9 (9è RIC) ra Bắc sau Hiệp định sơ bộ, do đó nạn khủng hoảng quân số đã bắt đầu trầm trọng, khiến địch không còn tiếp tục mở các cuộc tiến công lớn, sau cố gắng cuối cùng là cuộc hành quân Gô (Gaur) ra Nam Trung Bộ.

Mâu thuẫn của địch giữa tập trung và phân tán binh lực lại tái diễn vào khoảng mùa hè năm 1947, sau khi Pháp phải rải quân ra chiếm đóng các thành phố, thị xã, thị trấn và các trục giao thông chiến lược từ Đà Nẵng trở ra. Cái mà báo chí Pháp hồi đó gọi là mùa hè yên tĩnh nói lên một thực tế là Pháp không còn đủ binh lực nên sức tiến công bị chững lại. Phải qua mấy đợt tăng viện, kể cả số quân "tạm vay" của Pari, đến mùa khô năm 1947 Pháp mới tập hợp được chừng 2 vạn quân mở cuộc tiến công lên Việt Bắc. Từ đầu năm 1948 đến cuối năm 1950 là thời kỳ mà mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán binh lực của địch đã tiến dần tới mức sâu sắc nhất. Đó chính là kết quả các chiến dịch nhỏ đã từng bước buộc địch phải căng kéo lực lượng ra trên một diện rộng, đồng thời chúng lại phải thường xuyên đối phó với chiến tranh du kích đã ngày càng phát triển của ta, khiến cho khối cơ động chiến lược của địch xuống tới mức thấp nhất8. Không những các cuộc hành quân đánh chiếm của địch đã chững hẳn lại, mà địch còn ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự chiến lược giữ đất, luôn ở vào thế bị động đối phó với chủ lực của ta ở mặt trận phía trước và với chiến tranh du kích trong vùng địch hậu. Đúng vào thời điểm mà lực lượng cơ động chiến lược của địch mỏng nhất (10% tổng số binh lực), Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp chớp thời cơ ra quân đánh lớn trên chiến trường Biên giới mùa khô năm 1950, Bộ Chỉ huy Pháp không còn lực lượng để ứng cứu kịp thời và có hiệu quả nên buộc phải chấp nhận cái mà họ gọi là "thảm họa đường số 4".

Từ đầu năm 1951, việc Đờlát phát triển quân đội ngụy quy mô lớn cũng chỉ cho phép phía Pháp một năm sau mới mở được cuộc tiến công ra Hòa Bình. Nếu không kể cuộc hành binh Caxto của Nava tháng 11-1953 xuống Điện Biên Phủ nhằm mục đích phòng ngự chiến lược (bảo vệ Thượng Lào), thì cuộc hành binh Hoa sen của Đờlát ra Hòa Bình cuối năm 1951 được coi là cuộc hành binh cuối cùng mang ý nghĩa tiến công. Còn về ý đồ bình định thì, do hàng trăm cuộc càn quét lớn nhỏ cũng không sao xóa được các căn cứ du kích và khu du kích ngày càng phát triển trong vùng địch hậu, cho nên, như Tướng Mácsăng sau này nhận xét, do quân viễn chinh Pháp bị Tướng Giáp căng ra cho nên mãi đến những năm cuối của cuộc chiến tranh, công cuộc bình định vẫn còn nguyên vẹn.

Rõ ràng là thành công của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là đã sớm phát hiện tính quy luật của những mâu thuẫn ở tầm chiến lược của địch và dự kiến quy luật đó sẽ chi phối suốt cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp; mọi hoạt động của ông đều nhằm khoét sâu những mâu thuẫn trên đây, cũng tức là thúc đẩy cho những mâu thuẫn chiến lược đó tác động thường xuyên hơn và ngày càng gay gắt hơn đối với quân viễn chinh Pháp.

Nhìn toàn cục, ông sớm nhận thấy quân số địch đông, trang bị mạnh, nhưng đó là sức mạnh quân sự của một nước đế quốc mới bại trận, không có tiềm lực cần thiết để chi viện cho một cuộc chiến tranh kéo dài trên một chiến trường xa hàng vạn kilômét9. Mặt khác, quân viễn chinh Pháp lại đứng trước một đối tượng tác chiến không ngừng lớn mạnh và khả năng chiến đấu không ngừng được nâng cao, cho nên những mâu thuẫn đó không những sớm bộc lộ ngay từ những ngày đầu mà chiến tranh càng kéo dài thì những mâu thuẫn về chiến lược của địch càng trở nên sâu sắc. Thực tế cho thấy, quá trình quân đội ta càng trưởng thành và lớn mạnh thì Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp càng có điều kiện vận dụng những biện pháp chiến lược hữu hiệu để không ngừng dồn địch ngày càng lún sâu và không tìm được lối thoát ra khỏi những mâu thuẫn đã mang tính quy luật của các cuộc chiến tranh xâm lược. Có thể nói, biện pháp chiến lược khoét sâu mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán binh lực của địch và mâu thuẫn giữa yêu cầu chiến lược làm chủ chiến trường đồng bằng với bảo vệ chiến trường rừng núi của địch là cuộc đấu trí mà ông Giáp kiên trì từng bước trong suốt 9 năm đọ sức với Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp.

Để khoét sâu mâu thuẫn thứ nhất của địch, mâu thuẫn giữa tập trung binh lực để tiến công và phân tán binh lực để phòng ngự giữ đất, trong mỗi mùa khô, các chiến dịch tiến công của các đại đoàn chủ lực đều được ông Giáp chỉ đạo triển khai trên nhiều hướng, có hướng chính, hướng phối hợp cộng với sự phối hợp chung của các chiến trường trong cả nước với chiến trường chính Bắc Bộ, đồng thời chỉ đạo đẩy mạnh chiến tranh du kích trong địch hậu, dồn địch vào tình thế phải phân tán binh lực đối phó trên nhiều hướng. Sự kết hợp giữa hai hình thức chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy của ta càng chặt chẽ thì thời gian và không gian uy hiếp và căng kéo địch càng lớn, càng khiến cho chúng luôn luôn ở vào thế quân đông mà hóa ít, trang bị mạnh mà bị phân tán, không thể đáp ứng đồng thời hai nhiệm vụ tiến công để mở rộng phạm vi chiếm đóng và bảo vệ có hiệu quả vùng tạm chiếm.

Mâu thuẫn chiến lược thứ hai của địch là giữa yêu cầu đồng thời đứng chân được trên cả hai chiến trường đồng bằng và rừng núi. Đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo vệ vùng tạm chiếm ở đồng bằng đông người nhiều của nhằm phục vụ cho mục đích của cuộc chiến tranh xâm lược với yêu cầu duy trì thế đứng trên chiến trường rừng núi - những địa bàn chiến lược rất quan trọng đối với địch. Càng về cuối cuộc chiến tranh (như thời Xalăng rồi Nava), do bộ đội chủ lực của ta đã trưởng thành, có khả năng đánh tiêu diệt lớn, trong khi trong vùng sau lưng địch chiến tranh du kích đã phát triển lên trình độ cao, các chiến dịch tiến công của bộ đội chủ lực đã hướng lên chiến trường rừng núi từ Tây Bắc đến Thượng - Trung - Hạ Lào và Tây Nguyên thì sự giằng xé về binh lực của địch giữa trung du, đồng bằng và rừng núi càng bộc lộ rõ. Những năm 1952 - 1954 là bước phát triển đến đỉnh cao mâu thuẫn giữa hai yêu cầu chiến lược bảo vệ đồng bằng sông Hồng với yêu cầu không thể bỏ các chiến trường rừng núi khác trên toàn bán đảo Đông Dương.

Vào năm cuối, khi cuộc chiến tranh đã phát triển đến mức cao nhất thì mấy đòn tiến công liên tiếp và gối đầu mà Tổng Tư lệnh triển khai trong đợt 1 của chiến cuộc đông - xuân 1953 - 1954 là những đòn rất hiểm, hiểm tới mức đã sớm mang tính chất quyết định số phận của kế hoạch Nava. Những đòn tiến công đó đã khoét sâu đồng thời ba mâu thuẫn của Nava:

1- Mâu thuẫn giữa chủ trương tập trung nhưng buộc phải phân tán khối cơ động chiến lược trên 40 tiểu đoàn.

2- Mâu thuẫn giữa ý đồ chuẩn bị tiến công lớn vào bước 2 của kế hoạch Nava nhưng buộc phải điều đi chống đỡ trước các đòn tiến công dồn dập trên nhiều hướng của chủ lực ta.

3- Mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo vệ vùng tạm chiếm ở đồng bằng trước sự uy hiếp của cả ba thứ quân đối phương với yêu cầu không thể để mất các địa bàn chiến lược quan trọng trên các chiến trường rừng núi.

Từ thực tế 30 năm chiến tranh giải phóng, sau này trong Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: "Trước sức mạnh to lớn của nhân dân ta, kẻ địch muốn đánh nhanh mà phải đánh lâu dài; muốn tạo nên một hình thái chiến tranh có chiến tuyến mà bị buộc phải tác chiến trong một hình thái chiến tranh xen kẽ, cài răng lược; muốn tập trung lực lượng mà phải phân tán lực lượng; muốn chủ động phát huy sức mạnh và cách đánh sở trường của chúng mà phải bị động đối phó với sức mạnh và cách đánh sở trường của ta; muốn tiến công mà phải phòng ngự; muốn tiêu diệt lực lượng của ta, nhưng lại bị ta tiêu diệt; muốn dùng sức mạnh để phá hủy tiềm lực của ta nhưng kết quả là chính tiềm lực của chúng bị tiêu mòn nghiêm trọng".

b- Về chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch

Việc chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong cuộc kháng chiến chống Pháp có thể chia làm hai thời kỳ. Sau chiến dịch phản công địch trên chiến trường Việt Bắc10, từ đầu năm 1948 đến trước mùa khô năm 1950 (tạm gọi là thời kỳ thứ nhất), quân ta triển khai các chiến dịch tiến công quy mô nhỏ và vừa, lực lượng tham gia các chiến dịch này gồm các trung đoàn chủ lực của bộ và của khu và thường do Bộ Tư lệnh khu (liên khu) trực tiếp tổ chức theo phương hướng chiến lược chung của Bộ Tổng chỉ huy. Từ Chiến dịch Biên giới đến khi chiến tranh kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ (tạm gọi là thời kỳ thứ hai) quân ta chuyển lên đánh lớn và các chiến dịch đều do các đại đoàn dự bị chiến lược của bộ tiến hành, dưới sự điều hành trực tiếp của Bộ Chỉ huy chiến dịch do Thường vụ Trung ương chỉ định. Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp luôn được chỉ định là Bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch. Trong thời kỳ thứ hai này, xen kẽ với các chiến dịch lớn do bộ trực tiếp chỉ huy, cũng còn một số chiến dịch do Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo về phương hướng và tổ chức phối hợp về chiến lược, cấp khu hoặc đại đoàn trực tiếp chỉ huy11.

Trong thời kỳ thứ nhất

Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp nhận thức đúng đắn về quy luật chiến tranh du kích nhất thiết phải tiến lên chiến tranh chính quy và kết hợp chặt chẽ với chiến tranh chính quy để giành thắng lợi trong chiến tranh giải phóng, nhưng ông không nóng vội mà đi từng bước vững chắc nhằm nâng dần trình độ bộ đội chủ lực từ thấp đến cao. Việc rèn luyện cho các tiểu đoàn tập trung và các trung đoàn của khu và của bộ trong các chiến dịch nhỏ nhằm chuẩn bị điều kiện tiến lên đánh tập trung quy mô lớn hơn, là theo phương hướng chiến lược của Tổng Quân ủy "đẩy mạnh vận động chiến tiến tới" trong những năm 1948 - 1950.

Như ta đã biết, sau năm đầu kháng chiến toàn quốc, việc tổ chức một chiến dịch - dù chỉ là chiến dịch nhỏ - đối với cấp khu và trung đoàn còn là vấn đề rất mới mẻ. Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đặc biệt quan tâm hướng dẫn, chỉ đạo và tạo mọi điều kiện thuận lợi ở tầm chiến lược để các khu và trung đoàn quen dần với việc tổ chức chỉ đạo, chỉ huy một chiến dịch.

Việc cấp chiến lược chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động của các ban xung phong công tác, đội vũ trang tuyên truyền, đại đội độc lập, nhằm phát động chiến tranh du kích ngày càng sâu rộng, động viên, tổ chức nhân dân vùng sau lưng địch tham gia kháng chiến dưới nhiều hình thức như diệt tề trừ gian, đánh du kích, binh địch vận đã tạo thế chiến lược toàn dân đánh giặc, một thế cài răng lược giữa ta và địch làm cho quân Pháp và chính quyền tay sai ở cơ sở phải đối phó thường xuyên từ nhiều phía, tạo điều kiện thuận lợi cho các tiểu đoàn tập trung và các trung đoàn chuẩn bị và thực hành các chiến dịch nhỏ.

Trong các chỉ lệnh về mở chiến dịch nhỏ, nhất là trên chiến trường chính Bắc Bộ, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp thường hướng dẫn việc chọn hướng chiến dịch thích hợp, tạo điều kiện cho các chiến dịch phát triển thuận lợi. Hướng chiến dịch do Tổng Tư lệnh chỉ định thường là trên chiến trường rừng núi, như Đông Bắc, Tây Bắc, nơi địch phân tán, yếu và sơ hở, lực lượng ứng chiến hạn chế, địch không có điều kiện phát huy hết tính năng, tác dụng của các binh khí, kỹ thuật, như không quân, pháo binh. Mỗi lần giao cho khu (hay đại đoàn hoặc các trung đoàn độc lập) mở chiến dịch trên một hướng nào đó, Tổng Tư lệnh thường ra chỉ lệnh cho nhiều hướng khác - cả trên chiến trường chính Bắc Bộ và các chiến trường toàn quốc - hoạt động phối hợp, buộc địch phân tán binh lực đối phó trên nhiều hướng, tạo thêm điều kiện cho hướng mở chiến dịch giành thắng lợi.

Trong những năm 1948 - 1950, do trình độ trang bị và kinh nghiệm chiến đấu của các tiểu đoàn, trung đoàn còn hạn chế, nên quy mô chiến dịch thường từ vài ba tiểu đoàn đến vài ba trung đoàn, phương thức tác chiến lúc đầu còn mang nặng tính du kích. Mục đích chiến dịch do cấp chiến lược nêu lên trong mấy năm đầu chưa phải lấy việc giải phóng đất đai làm chính, mà thường nhấn mạnh việc tiêu diệt địch, vừa đánh vừa rút kinh nghiệm, để trưởng thành từng bước. Khi trao nhiệm vụ mở chiến dịch, Tổng Tư lệnh thường nhấn mạnh tư tưởng chỉ đạo, nhất là tư tưởng tích cực, chủ động, bí mật, bất ngờ và chắc thắng. Ông luôn nhắc nhở cán bộ chỉ huy khắc phục tư tưởng tham ăn to đánh lớn, vượt sức của bộ đội. Quá trình trưởng thành từng bước của bộ đội chủ lực thông qua các chiến dịch nhỏ cũng là quá trình trang bị bước đầu được cải tiến12. Đó chính là điều kiện để tăng dần về quy mô binh lực trong từng chiến dịch và mục đích chiến dịch cũng từng bước cao hơn: bên cạnh mục đích tiêu diệt địch là chính, dần dần các chiến dịch nhỏ còn nhằm mục đích giải phóng đất đai, phá chiến thuật "vết dầu loang" của địch, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của chúng. Đó cũng chính là quá trình hình thành nghệ thuật chiến dịch Việt Nam (chủ yếu là nghệ thuật chiến dịch tiến công) từ chỗ manh nha lúc đầu, tiến lên dần dần hoàn chỉnh, chuẩn bị kiến thức cần thiết để bộ đội chủ lực chuyển lên đánh lớn.

Quá trình tiến bộ từng bước về khả năng tác chiến của các tiểu đoàn và trung đoàn chủ lực thông qua các chiến dịch nhỏ cũng là quá trình phát triển về biện pháp đối phó của địch, từ các cứ điểm nhỏ với các đội ứng chiến nhỏ tiến lên các cứ điểm lớn hơn rồi cụm cứ điểm với các đội ứng chiến lớn dần và quân ứng chiến bằng nhảy dù cũng bắt đầu xuất hiện. Riêng về công sự phòng ngự của địch, đó cũng là quá trình phát triển từ thô sơ, dã chiến, bằng gỗ đất và hàng cọc "lông nhím" (như Phủ Thông, Đại Bục, Đại Phác, Róm) tiến lên công sự vững chắc hơn (như Phố Lu, Nghĩa Đô). Binh lực trong cứ điểm của địch cũng tăng dần, từ một vài tiểu đội, trung đội lúc đầu, tiến lên vài trung đội, đại đội rồi đại đội tăng cường (như Đông Khê đầu năm 1950). Hỏa lực của địch cũng từ hỏa lực bộ binh chiến đấu phòng ngự tại chỗ là chủ yếu, tiến lên có hỏa lực pháo binh trong từng cụm cứ điểm rồi pháo binh yểm trợ từ xa cùng với hỏa lực máy bay.

Tùy quy mô chiến dịch, tình hình trang bị của đơn vị tham chiến của ta và điều kiện chiến trường (xa, gần, khả năng hậu cần tại chỗ, tình hình cơ sở chính trị quần chúng tại chỗ, tình hình địch), Tổng Tư lệnh thường chỉ đạo các cơ quan Tổng hành dinh tăng cường lực lượng quân báo, hỗ trợ về hậu cần, lương thực và vũ khí nặng phối thuộc (nhất là trên hướng chủ yếu) để tạo thêm điều kiện thuận lợi và bảo đảm giành thắng lợi cho chiến dịch. Cũng có trường hợp (như trong Chiến dịch Đông Bắc) do lực lượng phỉ tại chỗ rất đông, Tổng Tư lệnh dự kiến thời gian chuẩn bị lâu hơn, thận trọng hơn, nên ông đã chỉ đạo việc tiễu phỉ và chuẩn bị cơ sở chính trị làm địa bàn đứng chân cho chủ lực của khu vào mở chiến dịch. Một ví dụ khác là vào đầu năm 1954, sau khi quyết định thay đổi cách đánh ở Điện Biên Phủ, Tổng Tư lệnh đã trực tiếp giao nhiệm vụ và cử đoàn cán bộ quân nhu đuổi theo 308 khi đại đoàn được lệnh cấp tốc lật cánh sang chiến trường Lào, nhằm giúp đại đoàn giải quyết vấn đề hậu cần tiếp tế, trong điều kiện hành quân cấp tốc, chiến trường xa, ngôn ngữ bất đồng, dân cư nước bạn thưa thớt trên vùng cao. Việc đó đã thiết thực tạo thêm điều kiện thuận lợi cho đại đoàn nhanh chóng đánh sập hành lang chiến lược dọc sông Nậm Hu rồi lại nhanh chóng trở về với đội hình của toàn quân trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Ngoài việc theo sát quá trình diễn biến của các chiến dịch của các khu và trung đoàn để kịp thời góp ý kiến chỉ đạo (thường qua hệ thống phái viên đốc chiến của bộ phái xuống), một vấn đề mà Tổng Tư lệnh đặc biệt quan tâm là chỉ đạo việc tổng kết rút kinh nghiệm sau mỗi chiến dịch, coi đó là một bước rất cần thiết cho bước trưởng thành của cán bộ và bộ đội cũng như các cơ quan quân sự Tổng hành dinh. Trong chỉ đạo rút kinh nghiệm, Tổng Tư lệnh thường hướng dẫn việc biểu dương những trận đánh hiệu suất cao, những sáng tạo trong tổ chức, chỉ huy của cán bộ, đồng thời ông cũng rất nghiêm khắc đối với những trận đánh mạo hiểm, kết quả "được không bù mất", như các trận Phủ Thông (1948), sông Lô (1949), Nghĩa Đô, Phố Lu (1950).

Thực tế đã chứng minh, các chiến dịch nhỏ trong những năm 1948-1950, với sự chỉ đạo chặt chẽ của Tổng Quân ủy và của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp từ khâu chuẩn bị cho đến khi chiến dịch kết thúc, có tầm quan trọng đặc biệt đối với từng bước tiến vững chắc, càng đánh càng mạnh, càng trưởng thành của bộ đội chủ lực của bộ và của khu trên bước đường từ du kích tiến lên chính quy.

Trong thời kỳ thứ hai

Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp bắt đầu ra quân và trực tiếp chỉ huy các chiến dịch đánh lớn khi thế trận chiến tranh nhân dân đã được củng cố và phát triển, chiến tranh du kích được mở rộng đã có khả năng phối hợp ngày càng đắc lực với các chiến dịch đánh tập trung của bộ đội chủ lực. Các trung đoàn chủ lực của bộ đã trưởng thành một bước quan trọng sau hơn 2 năm rèn luyện trong các chiến dịch nhỏ và vừa. Trên cơ sở đó, các đại đoàn chủ lực đã lần lượt ra đời13, cơ quan quân sự Tổng hành dinh đã được củng cố, cơ quan chính trị và hậu cần của Bộ Tổng tư lệnh đã được tổ chức thành hai tổng cục cùng Bộ Tổng tham mưu trực tiếp điều hành ba ngành công tác mỗi khi Bộ Tổng tư lệnh mở chiến dịch. Trong khi đó về phía địch, lực lượng của Pháp và tay sai đã lên tới 24 vạn tên (50% là quân ngụy), nhưng lực lượng cơ động chiến lược của địch đã rất hạn chế sau khi mở rộng phạm vi chiếm đóng ra vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, sức tiến công của địch đã bị chững lại. Từ tháng 6-1950, Mỹ đã bắt đầu viện trợ quân sự cho Pháp và năm đó Mỹ đã gánh vác chừng 20% chiến phí của Pháp ở Đông Dương. Trên chiến trường chính Bắc Bộ, tổ chức phòng ngự của địch đã hình thành các cụm cứ điểm liên hoàn hỗ trợ được cho nhau, nhất là về hỏa lực. Trên những địa bàn chiến lược quan trọng (như phòng tuyến đường số 4) hệ thống phòng ngự của địch đã được củng cố và tăng cường cả về công sự (thường có hầm ngầm), hỏa lực pháo binh yểm trợ và lực lượng ứng cứu bằng cả bộ binh và quân dù.

Trước mỗi mùa chiến dịch, Tổng Tư lệnh thường trao đổi và cùng tập thể Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy sớm dự kiến hướng chiến dịch, kịp để cho các cơ quan quân sự Tổng hành dinh cũng như các đại đoàn tranh thủ thời gian triển khai mọi công tác chuẩn bị chiến trường. Xác định hướng chiến lược là nội dung quan trọng bậc nhất của việc chỉ đạo chiến lược. Cấp chiến lược chọn đúng hướng thì chiến dịch tiến triển thuận lợi, đạt yêu cầu chiến lược đề ra cả về tiêu diệt sinh lực địch và giải phóng đất đai, chọn không đúng hướng thì chiến dịch bị "sượng", không những các đại đoàn, trung đoàn không hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ mà còn ảnh hưởng xấu đến sức mạnh chiến đấu của bộ đội và tác động không thuận lợi đối với phong trào chiến tranh du kích. Nhìn chung, từ khi quân ta bắt đầu đánh lớn cho đến khi chiến tranh kết thúc, trừ ba chiến dịch xuân - hè năm 1951 ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, các chiến dịch khác đều đạt mục đích và yêu cầu chiến lược đề ra, tạo nên cục diện mới thuận lợi cho ta, đặc biệt là các chiến dịch quan trọng mang ý nghĩa quyết định bước ngoặt chiến lược, như các chiến dịch Biên giới và Điện Biên Phủ.

Do tương quan lực lượng, nhất là từ năm 1951 viện trợ quân sự của Mỹ ngày càng tăng, địch luôn ưu thế về trang bị kỹ thuật, cho nên phương hướng chọn địa bàn tiến công của các đại đoàn chủ lực cho đến trước Chiến dịch Điện Biên Phủ vẫn theo phương châm "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu". Chỗ yếu về thế chiến lược của địch là trên địa bàn rừng núi, nơi binh lực địch phân tán, sơ hở, địa hình không những không cho phép chúng phát huy đầy đủ tính năng chiến, kỹ thuật của các loại binh khí lớn (phi cơ, pháo binh) mà còn hạn chế khả năng cơ động lực lượng tăng viện quy mô lớn của địch. Chiến trường rừng núi lại là nơi bộ đội chủ lực của ta có thể dựa vào thế "rừng che bộ đội, rừng vây quân thù" để phát huy đầy đủ cách đánh sở trường của mình, thường là đánh đêm, kết thúc trận đánh và lui quân trước khi trời sáng.

Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp ta đều đánh giá đúng tương quan lực lượng, đều nắm vững phương châm "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu" khi chọn hướng tiến công chiến lược. Đó là vào xuân - hè năm 1951.

Sau thắng lợi vượt mức kế hoạch của Chiến dịch Biên giới, trong chỉ đạo chiến lược đã bộc lộ tư tưởng chủ quan nóng vội, đánh giá thấp địch, cho rằng thắng lợi đã đến gần nên đã mở liền ba chiến dịch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ14. Cả ba chiến dịch đều không đạt yêu cầu chiến lược đề ra. Điều đáng chú ý là sau chiến dịch đầu tiên (Chiến dịch Trần Hưng Đạo trên địa bàn Vĩnh Yên cuối tháng 12-1950 đầu tháng 1-1951) ta chậm phát hiện đầy đủ và sâu sắc đặc điểm địa hình trung du, chậm thấy tình hình địch đã có nhiều thay đổi, không còn như kẻ địch trong chiến dịch trước. Chiến trường trung du địa hình tương đối bằng phẳng, với những đồi thấp, cây lúp xúp, là chiến trường mà địch không gặp trở ngại trong việc phát huy cao độ tính năng, tác dụng và uy lực của máy bay, pháo binh, cơ giới và khả năng điều động rất nhanh lực lượng ứng chiến quy mô lớn, khác hẳn chiến trường rừng núi. Về phía ta, chiến thắng Biên giới nói lên một thực tế là bộ đội ta đã trưởng thành cả về đánh công kiên và vận động, trang bị đã được cải tiến, nhưng sức mạnh của chủ lực ta là sức mạnh có điều kiện. Sức mạnh đó chỉ có thể phát huy đầy đủ trong cách đánh sở trường là đánh đêm, trên chiến trường thuận lợi và quen thuộc là chiến trường rừng núi. Do chậm phát hiện thực tế đó, sau Chiến dịch Trung du, Tổng Quân ủy và Tổng Tư lệnh mở tiếp hai chiến dịch trên hướng vùng mỏ Đông Bắc và vùng chiêm trũng Hà - Nam -Ninh, chiến trường rất xa, thời tiết và nhất là địa hình không thuận lợi. Như vậy là chỉ trong vòng sáu tháng (12-1950 - 6-1951) Tổng Quân ủy mở liên tiếp ba chiến dịch trong điều kiện không thuận lợi, cường độ hành quân chiến đấu rất cao, lại thêm thương vong, khiến sức chiến đấu của bộ đội giảm.

Bước vào mùa khô năm 1951, giữa lúc ta đang lúng túng trong việc chọn phương hướng mở chiến dịch thì Tổng Chỉ huy Đờlát mang binh lực lớn ra bên ngoài phòng tuyến boongke, đánh chiếm vùng Hòa Bình - sông Đà - đường số 6. Địch đã tạo cho ta một cơ hội bằng vàng - như cách nói của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Kịp thời và triệt để lợi dụng sai lầm của địch, ta đã giành thắng lợi lớn trong đông - xuân 1951 - 1952. Và chỉ sau thắng lợi to lớn của Chiến dịch Hòa Bình, hướng mở chiến dịch tiến công của các đại đoàn chủ lực mới được khẳng định và chuyển lên vùng rừng núi Tây Bắc, Thượng - Trung - Hạ Lào và Tây Nguyên và cũng từ đó cho đến khi kết thúc chiến tranh quân ta đã liên tiếp giành những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng.

Chuẩn bị chiến trường cho các chiến dịch lớn trong điều kiện thực tế của ta hồi đó (chủ yếu dựa vào sức mạnh của cơ bắp) đòi hỏi rất nhiều công sức và thời gian. Điều đó giải thích vì sao Tổng Tư lệnh luôn quan tâm tạo điều kiện cho các cơ quan quân sự Tổng hành dinh và các đại đoàn có đủ thời gian chuẩn bị chiến trường. Thực tế các chiến dịch Tây Bắc, Thượng Lào (Chiến dịch Sầm Nưa) và Điện Biên Phủ cho thấy, mỗi khi chọn địa bàn mở chiến dịch trên chiến trường rừng núi xa căn cứ, giao thông không thuận tiện, việc làm đường và sửa đường thường được Tổng Tư lệnh chỉ đạo các cơ quan tham mưu và hậu cần phối hợp với các ngành có liên quan của Chính phủ triển khai rất sớm. Quy mô đánh lớn, đường hành quân xa, lượng tiêu thụ vật chất đòi hỏi nhiều, nên một trong những điều quan tâm hàng đầu của các cơ quan quân sự Tổng hành dinh sau khi hướng chiến dịch được xác định là việc mở đường hành quân cho bộ đội và cho dân công hỏa tuyến. Càng về cuối cuộc kháng chiến, khi lực lượng vận tải cơ giới của ta bắt đầu hình thành, việc mở đường càng được Tổng Tư lệnh dự kiến từ rất sớm. Thực tế cho phép khẳng định: giành được chiến thắng trong các chiến dịch Tây Bắc, Sầm Nưa và nhất là Điện Biên Phủ, một nguyên nhân đầu tiên là Tổng hành dinh đã nhìn xa, thấy trước và kịp thời mở thêm đường và sửa chữa cầu đường quy mô lớn, đồng thời với chỉ đạo đẩy mạnh việc tiễu phỉ. Không có đường cơ động, không thể đánh lớn. Hồi đó, cán bộ tham mưu Tổng hành dinh thường nói: Câu đó của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ở vị trí chỉ đạo chiến lược đã tạo thêm điều kiện thuận lợi cho Chỉ huy trưởng Võ Nguyên Giáp ở vị trí chỉ huy trưởng giành thắng lợi trong các chiến dịch.

Một khâu quan trọng trong chuẩn bị chiến dịch là về hậu cần, trong điều kiện cụ thể lúc đó nổi lên là vấn đề lương thực. Hồi đó Chính phủ đã ban hành chính sách kinh tế mới (thuế nông nghiệp), phong trào thi đua đóng góp cho kháng chiến của nhân dân vùng tự do cũng như vùng sau lưng địch rất cao, chúng ta lại được sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc. Đó là những thuận lợi rất lớn đối với công tác hậu cần chiến dịch, mặc dù quy mô các chiến dịch những năm 1950 - 1954 ngày càng lớn và khả năng huy động tại chỗ trên các chiến trường rừng núi còn rất hạn chế. Điều quan tâm chỉ đạo của Tổng Tư lệnh đối với ngành hậu cần sau khi hướng chiến dịch đã được xác định là làm sao tổ chức huy động từ phía sau để kịp thời đáp ứng yêu cầu từng đợt của chiến dịch. Thế nhưng cũng không tránh khỏi đôi lần, do kế hoạch của hậu cần không sát hoặc vì khó khăn do địch và thời tiết gây nên, đã từng có trường hợp vấn đề cung cấp lương thực trở nên nóng bỏng như trong Chiến dịch Hà - Nam - Ninh hay một số ngày trong Chiến dịch Điện Biên Phủ và đặc biệt là hàng tuần lễ căng thẳng do tắc đường vận chuyển ở Khâu Vác trong Chiến dịch Tây Bắc.

Để giành thắng lợi trong mỗi mùa khô, nếu với cấp chiến lược là vấn đề chọn đúng hướng tiến công thì với cấp chiến dịch, vấn đề hàng đầu là chọn đúng cách đánh.

Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã thành công trong chỉ đạo, chỉ huy các chiến dịch lớn không những nhờ xác định đúng cách đánh ngay từ đầu mà trong rất nhiều trường hợp ông còn nhạy bén phát hiện phương châm và kế hoạch tác chiến không phù hợp và đã kịp thời thay đổi cách đánh để dẫn dắt toàn quân đi đến thắng lợi vào những thời điểm đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa bước ngoặt trong cuộc kháng chiến chống Pháp, như các chiến dịch Việt Bắc, Biên giới và Điện Biên Phủ. Thắng lợi của ba chiến dịch đó thể hiện sự sáng suốt, nhạy bén, tinh thần thực sự cầu thị đánh giá đúng tình hình thực tế, biết xuất phát từ thực tế để hành động theo đúng quy luật, đồng thời không chủ quan bảo thủ, có dũng khí dám sửa chữa sai lầm kể cả trong những hoàn cảnh gay cấn nhất. Theo cách nói của tướng lĩnh và sử gia nước ngoài, đó là dũng khí của một thống soái quân sự cỡ lớn.

Nếu ở tầm vĩ mô, chiến lược, ta đã thấy một nét đặc sắc trong bản lĩnh cầm quân của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là khả năng phát hiện những chỗ yếu cơ bản đằng sau cái mạnh thực sự của địch để tìm biện pháp hữu hiệu nhằm khoét sâu chỗ yếu, hạn chế đi đến vô hiệu hóa chỗ mạnh của chúng để giành thắng lợi, thì ở tầm chiến dịch ta cũng thấy bản lĩnh đó của ông.

Trong mùa khô đầu tiên, ông đã nhằm vào chỗ yếu chí tử của địch là cuộc hành binh của hàng vạn quân cách xa căn cứ mấy trăm kilômét, quân đông nhưng dàn mỏng trên một diện rất rộng của chiến trường rừng núi, hoàn toàn phụ thuộc vào các đoàn vận tải trên bộ và trên sông để giải quyết vấn đề tăng viện tiếp tế, nhất là điểm yếu của gọng kìm phía tây. Ông chỉ ra cách đánh thích hợp với trình độ bộ đội ta hồi đó là phục kích quân địch vận động cả trên bộ và trên sông, từng bước hạn chế đi đến bẻ gãy gọng kìm của địch, buộc địch phải lui quân.

Điểm mạnh của địch trên tuyến phòng thủ đường số 4 là quân đông, công sự đã được củng cố vững chắc sau trận Đông Khê cuối tháng 5-1950. Nhưng chỗ yếu của địch là rải quân ra chiếm đóng suốt chiều dài của con đường bằng những cụm cứ điểm cô lập, mỗi vị trí rất cách xa nhau, chỉ có thể ứng cứu bằng viện binh, nhất là quân dù. Chặt đứt phòng tuyến bằng trận mở màn, buộc địch hoặc phải rút chạy khỏi Cao Bằng, hoặc phải đưa quân theo đường bộ lên chiếm lại Đông Khê, trong cả hai trường hợp quân ta đều có cơ hội tiêu diệt viện binh địch.

Tướng Đờlát đem quân đánh ra Hòa Bình, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp phát hiện điểm mạnh của địch là quân đông, trang bị mạnh, trong đó có tập đoàn cứ điểm vừa hình thành trong thị xã; chỗ yếu cơ bản của chúng là giao thông tiếp tế cho hàng vạn quân thoát ly vành đai boongke ra một chiến trường rừng núi xa căn cứ đồng bằng. Mặt khác, ông cũng lường trước bộ đội ta chưa đủ sức đánh bại một hình thức phòng ngự mới là tập đoàn cứ điểm, nên ông tập trung lực lượng khoét sâu khó khăn của địch là tiếp tế tăng viện trên đường số 6 và sông Đà. Điểm mới trong cách đánh trong chiến dịch này là nhân thời cơ địch sơ hở trong vùng địch hậu, ông lệnh đưa hai đại đoàn chủ lực vào hoạt động ở trung du và đồng bằng, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của nhân dân đang gặp khó khăn trong vùng tạm bị chiếm, căng kéo lực lượng địch giữa hai mặt trận phía trước và vùng địch hậu. Đây là một sáng tạo mới trong chỉ đạo chiến dịch có tầm chiến lược, là một đòn chiến lược hiểm, góp phần quan trọng vào cải thiện tình hình vùng sau lưng địch có lợi cho ta, đồng thời phối hợp đắc lực với chiến dịch ở phía trước, buộc địch không thể kéo dài tình trạng lực lượng bị căng kéo, cuối cùng phải lui quân khỏi Mặt trận Hòa Bình.

Mỗi chiến dịch có những đặc điểm và điều kiện riêng, nên Tổng Tư lệnh luôn nhấn mạnh yêu cầu cán bộ phải nắm vững về tình hình địch, ta, quán triệt mục đích yêu cầu, phương châm tác chiến và tư tưởng chỉ đạo tác chiến chiến dịch. Bên cạnh những chỉ lệnh hướng dẫn và những mệnh lệnh tác chiến bằng văn bản, thói quen của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là mở hội nghị cán bộ chiến dịch, từ hội nghị trao nhiệm vụ sơ bộ đến hội nghị kiểm tra công tác chuẩn bị lần cuối trước ngày nổ súng và cuối cùng là hội nghị tổng kết chiến dịch. Đó thực chất cũng là những lớp tập huấn ngắn ngày thực hiện dưới hình thức dân chủ quân sự, nhất là trước ngày nổ súng. Khi giao nhiệm vụ, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp thường động viên cán bộ trực tiếp đi nghiên cứu chiến trường, nắm thật vững tình hình bố trí của địch để củng cố lòng tin vào chủ trương và kế hoạch tác chiến, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo, chỉ huy tác chiến của đơn vị. Trong chiến dịch đánh lớn đầu tiên, việc Tổng Tư lệnh đích thân đi trinh sát thực địa để có cơ sở thực tế hạ quyết tâm đúng đắn về chọn mục tiêu mở màn Chiến dịch Biên giới. Đây là một tấm gương đối với cán bộ trung đoàn, đại đoàn và cơ quan chiến dịch, được cán bộ đánh giá cao và noi theo. Trong hội nghị chuẩn bị chiến dịch, Tổng Tư lệnh đặc biệt quan tâm động viên giáo dục cán bộ xử trí tình huống cho chính xác, kịp thời; phát huy tính linh hoạt, sáng tạo trong cách đánh, không bỏ lỡ thời cơ diệt địch và dù trong mọi trường hợp thuận lợi hoặc thắng lợi đều không được chủ quan khinh địch. Khi giao nhiệm vụ, ông thường khuyến khích cán bộ nói hết những điều khó khăn, vướng mắc, không những nhằm đánh giá trình độ cán bộ quán triệt nhiệm vụ như thế nào mà còn giúp tìm biện pháp giải quyết thỏa đáng những vấn đề tồn tại để đảm bảo thắng lợi cho chiến dịch. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp ông đều động viên được cán bộ nói hết những điều chưa "thông" của mình. Khi nghe và thảo luận kế hoạch tác chiến trong Hội nghị Thẩm Púa (Chiến dịch Điện Biên Phủ), có những cán bộ không tin rằng chiến dịch có thể giành thắng lợi bằng cách "đánh nhanh giải quyết nhanh", nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên cán bộ chưa nói hết những điều muốn nói.

Trong việc giao nhiệm vụ trước khi bước vào chiến dịch (hoặc trong quá trình diễn biến của chiến dịch), Tổng Tư lệnh thường căn cứ vào điều kiện và sở trường của từng đại đoàn, từng trung đoàn. Đánh cụm cứ điểm Đông Khê (trong Chiến dịch Biên giới), ngoài Trung đoàn 209, ông chỉ định đơn vị đã từng tiêu diệt Đông Khê lần 1, đó là Trung đoàn 174; đánh địch vận động ở Xuân Trạch (trong Chiến dịch Trần Hưng Đạo) hay đánh viện binh địch trên hướng Ba Vì (trong Chiến dịch Hoà Bình), ông giao cho Đại đoàn 312; cơ động về đánh địch ở Phú Thọ (trong Chiến dịch Tây Bắc) hoặc bôn tập đến cắm chốt ở Tây Trang (đề phòng địch rút chạy sang Thượng Lào trước khi ta nổ súng ở Điện Biên Phủ), ông giao cho Trung đoàn 36 là trung đoàn có sở trường về cơ động nhanh; chuyển hướng sang Thượng Lào (dọc sông Nậm Hu - sau khi thay đổi phương châm trong Chiến dịch Điện Biên Phủ) ông giao cho Đại đoàn 308, không chỉ vì đại đoàn này đang đứng chân ở hướng tây cánh đồng Mường Thanh, tiện lật cánh, mà còn vì khả năng chiến đấu của Đại đoàn Quân Tiên phong và tác phong chỉ huy "quân lệnh như sơn" của Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ, v.v..

Khi tiến hành một chiến dịch do bộ trực tiếp điều hành, Tổng Tư lệnh rất quan tâm theo dõi và giúp đỡ ba cơ quan trong sở chỉ huy chiến dịch, từ khâu xây dựng kế hoạch và triển khai công tác chuẩn bị chiến trường cũng như trong quá trình diễn biến chiến dịch. Ngay từ Chiến dịch Việt Bắc, khi tổ chức và trình độ nghiệp vụ công tác chính trị của các đơn vị còn hạn chế, ông luôn chỉ thị và hướng dẫn cho Cục Chính trị và cán bộ chỉ huy các hướng phải làm sao cho công tác chính trị đuổi kịp yêu cầu tác chiến của bộ đội. Khi bộ đội chớm xuất hiện hiện tượng mệt mỏi trong quá trình đánh địch ở khu vực Cốc Xá - 477 (trong Chiến dịch Biên giới), ông trao đổi với Chủ nhiệm Chính trị Lê Liêm về việc chỉ đạo động viên bộ đội vượt mọi khó khăn thử thách, thực hiện bằng được chỉ thị của Cụ Hồ và quyết tâm của Đảng ủy chiến dịch là tiêu diệt gọn hai binh đoàn địch. Gặp khó khăn về vấn đề gạo trong Chiến dịch Tây Bắc và Chiến dịch Điện Biên Phủ, Chỉ huy trưởng dành nhiều thời gian cùng cơ quan hậu cần họp bàn biện pháp khắc phục và ông đã tạo mọi điều kiện cho anh em cơ quan hoàn thành nhiệm vụ, kể cả những việc đòi hỏi huy động lực lượng và tổ chức rất công phu như điều công binh lên phá thác dọc sông Nậm Na để có thể chở gạo từ bản Nậm Cúm về Lai Châu rồi chuyển tiếp về Điện Biên. Riêng với cơ quan tham mưu, ngoài việc theo dõi và chỉ đạo công tác xây dựng kế hoạch tác chiến sao cho sát đúng và bám sát tình hình thay đổi của địch trước ngày nổ súng, trong quá trình diễn biến chiến dịch ông thường theo sát công việc của bộ phận trinh sát - nhất là tổ trinh sát kỹ thuật - để kịp thời khai thác tin tức thu được của địch bằng đài vô tuyến, nhằm phục vụ cho việc xử trí các tình huống, đáng kể nhất là trong những ngày hết sức khẩn trương trong chiến dịch giải phóng Sầm Nưa và đặc biệt là trong 12 ngày đêm bám sát những thay đổi của địch trên cánh đồng Mường Thanh để đi đến quyết định thay đổi phương châm tác chiến ở Điện Biên Phủ.

Mỗi mùa khô đến, trong khi một bộ phận cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần ra phía trước hình thành sở chỉ huy tiền phương giúp Tổng Tư lệnh điều hành chiến dịch thì bộ phận "ở nhà" quán xuyến mọi việc, từ theo dõi và chỉ đạo hoạt động của các chiến trường trong cả nước, tổng hợp tình hình chiến sự báo cáo định kỳ lên Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đến chỉ đạo việc sẵn sàng chiến đấu bảo vệ hậu phương và đặc biệt là vượt mọi khó khăn đáp ứng yêu cầu của phía trước. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, trong khi các ông Hoàng Văn Thái, Lê Liêm, Đặng Kim Giang ra mặt trận thì các ông Văn Tiến Dũng, Nguyễn Chí Thanh, Trần Đăng Ninh ở hậu phương chỉ đạo các chiến trường phối hợp mà quan trọng nhất là chiến trường địch hậu đồng bằng sông Hồng. Trước khi chiến dịch bắt đầu và nhất là sau khi có nghị quyết ngày 19-4-1954 của Bộ Chính trị, các ông đã từng thay nhau xuống các địa phương, nhất là Thanh Hóa, họp cán bộ bàn việc huy động lương thực cho tiền tuyến. Các cục, phòng được lệnh đáp ứng mọi yêu cầu của phía trước, trong đó có những việc đặc biệt khẩn trương như sao chép và in lại mấy trăm tấm bản đồ Điện Biên Phủ (thu được của địch) để kịp gửi ra mặt trận trước ngày nổ súng. Hồi đó, anh em tham mưu nói với nhau rằng chiếc máy điện thoại dự trữ cuối cùng trong kho cũng đã ra tiền tuyến. Khi số lượng tù binh ở Điện Biên Phủ lên tới mức ngoài dự kiến, đã từng xảy ra chuyện "xáo trộn" trong một số phòng, cục trong các cơ quan quân sự Tổng hành dinh ở hậu phương. Chẳng là từ phía trước có lệnh báo về: tất cả cán bộ nào biết tiếng Pháp, nếu có người có thể thay thế đảm nhiệm công việc thì lên ngay Điện Biên Phủ. Ngoài mặt trận đang thiếu rất nhiều cán bộ để quản lý tù binh. Những đồng chí đó sẽ sung vào đội ngũ cán bộ địch vận cho đến khi trao trả xong, có thể đến khoảng tháng 7, tháng 8 hoặc lâu hơn nữa. Thực tế, phải đến tháng 10, khi việc trao trả tù binh ở Việt Trì và Thanh Hóa đã hoàn tất, số cán bộ "địch vận bán chuyên nghiệp" đó mới trở về cơ quan. Khi phân tích nguyên nhân giành thắng lợi của mỗi chiến dịch, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp luôn nêu ý kiến nhận xét và biểu dương thành tích của các cán bộ tham mưu, chính trị, hậu cần trong sở chỉ huy chiến dịch, đồng thời ông cũng không quên bộ phận "ở nhà", những người đã góp phần vào thắng lợi chung trên từng cương vị công tác riêng của mình.

Sau mỗi chiến dịch, Tổng Tư lệnh thường dành thời gian đi thị sát chiến trường, để có cơ sở rút ra được những kết luận chính xác, nhất là về địch. Chính qua các vị trí như Đông Khê, Đồng Đăng, Pheo, đồi A1, v.v. mà ông có cơ sở thực tế để suy nghĩ về cách đánh giá sao cho thật đúng tinh thần quân địch, đánh giá đúng trình độ, khả năng và kinh nghiệm tổ chức phòng ngự của quân Pháp và tính ngoan cố của binh lính địch dựa vào ưu thế của công sự và hỏa lực để chống trả quyết liệt khi bị tiến công.

Đòi hỏi cán bộ phải đi sâu, đi sát để nắm vững tình hình và không bỏ lỡ thời cơ diệt địch cũng chính là những nội dung ông thường đi sâu phân tích trong các báo cáo tổng kết chiến dịch. Ông rất nghiêm khắc với tác phong chỉ huy quan liêu đại khái không nắm vững tình hình địch và cũng không nắm chắc bộ đội, báo cáo sai sự thật, những trận đánh "được không bù mất" và những trường hợp để lỡ thời cơ tiêu diệt địch. Tuy nhiên, ông tỏ ra rất khoan dung khi phân tích bối cảnh nảy sinh khuyết điểm - thậm chí khuyết điểm lớn trong chỉ huy của cán bộ. Ví dụ như trường hợp Đại đoàn 308 để Binh đoàn Lơpagiơ đi qua trận địa phục kích mà không đánh được. Ông hiểu rằng trải qua gần 10 ngày nóng lòng kiên trì chờ viện, khi có lệnh đi chuẩn bị tiến công Thất Khê thì thật dễ hiểu nếu không chỉ đạo chặt chẽ, cán bộ rất dễ "quên" nhiệm vụ phục kích đón viện binh địch từ Thất Khê lên.

Đánh giá tình hình địch và tình hình bộ đội cho thật đúng thực chất sau một thắng lợi lớn của ta, thất bại lớn của địch, là một điều Tổng Tư lệnh hết sức coi trọng. Ông vẫn thường nhắc nhở cán bộ đánh giá đúng điều kiện thắng của ta cùng với những nguyên nhân hạn chế thắng lợi đó, nguyên nhân vì sao địch thất bại và đặc biệt là trong nhiều chiến dịch thắng lợi, thậm chí thắng lợi rất lớn, ông thường nhấn mạnh với cán bộ: chớ vội chủ quan khinh địch.

Ngay từ chiến thắng Việt Bắc, Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã kịp thời chỉ cho cán bộ thấy những yếu kém của một đội quân thơ ấu, lần đầu tiên đối mặt quy mô lớn với địch, nguyên nhân của những yếu kém đó và cuối cùng ông chỉ ra phương hướng khắc phục. Chiến thắng Biên giới đánh dấu một bước trưởng thành vượt bậc của bộ đội trong một chiến dịch đầu tiên đánh công kiên và vận động quy mô lớn. Nhưng với tầm nhìn chiến lược của người cầm quân, ngoài những yếu tố chủ quan của ta, ông đã thấy và chỉ ra cho cán bộ thấy những khuyết điểm và nhược điểm về phía địch đã "góp phần" làm nên chiến thắng đó. Sai lầm đầu tiên của địch là thời cơ và phương thức tháo chạy khỏi Cao Bằng. Tiếp đến, như nhận định sau này của ông, nếu không vì hoảng loạn của cấp dưới và vì sai lầm trong chỉ đạo, chỉ huy của tướng lĩnh, địch cố thủ ở Đồng Đăng, Lạng Sơn thì bộ đội ta sẽ còn gặp không ít khó khăn và phải thêm một chiến dịch nữa mới đẩy được chúng ra khỏi đường số 4. Bởi vậy, với con mắt khách quan toàn diện và với tinh thần dám nhìn thẳng vào sự thật, trong Hội nghị Đảng ủy mở rộng sau chiến thắng Biên giới, ông nói: "Chiến dịch này chúng ta đã hoàn toàn thắng, nhưng cần chú trọng một điều là kỳ này ta đánh với một kẻ thù không có tinh thần tiến công, tránh giáp chiến (Binh đoàn Lơpagiơ), với một kẻ địch rút lui (Binh đoàn Sáctông) và trong điều kiện thiên thời, địa lợi có lợi cho ta. Do đó, chúng ta cần tránh tư tưởng chủ quan khinh địch". Và ông còn thấy trước, do bị thất bại ở biên giới, "địch bị kích động, sẽ đánh giá ta hơi cao, đồng thời cũng sẽ chuẩn bị đối phó với một trình độ cao hơn".

Dự kiến đó không những chỉ được chứng minh trong các chiến dịch xuân - hè năm 1951 mà cả trong Chiến dịch Hòa Bình. Cụ thể là, đi thị sát chiến trường Hòa Bình sau chiến thắng, ông thấy rất nhiều điểm mới về phía địch: Về bố phòng, trước mắt ông hiện ra một hình thái phòng ngự mới của quân Pháp hoàn toàn khác với các cứ điểm trước đây; thực tế chỉ rõ quân Pháp đặc biệt giỏi trong bố trí phòng ngự; về yếu tố tinh thần của địch, ông nói ta thường hiểu chỗ yếu của địch là tinh thần; gần đây ta hay nói về tinh thần bạc nhược của binh lính Pháp trong Chiến dịch Biên giới. Nay ta đã thấy rõ thêm cái mạnh của quân đội nhà nghề, ta không thể không nghĩ tới sự chống trả quyết liệt của quân Pháp trong những trận đánh cứ điểm, một số nơi những tên lính cuối cùng chỉ chịu hạ vũ khí sau khi đã bắn hết đạn. Về tổ chức rút lui, ông nhận thấy "cũng trên địa hình rừng núi nhưng cuộc rút lui của quân Pháp ở Cao Bằng và ở Hòa Bình hoàn toàn khác nhau. Rõ ràng là quân Pháp biết rút kinh nghiệm kịp thời những trận đánh thất bại".

Một ví dụ khác là, cũng với tinh thần dám nhìn thẳng vào những thiếu sót của ta trong Chiến dịch Hòa Bình (một chiến dịch thắng lớn nhưng quân ta bỏ nhiều cơ hội diệt GM 4 ở Ba Vì, 2 tiểu đoàn dù ở Ba Trại, GM 1 khi chúng lên mỏm 600, diệt địch khi chúng rút lui), tại hội nghị hướng dẫn tổng kết, ông nói với cán bộ: "Chúng ta không thể nói được rằng "chúng tôi đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch và đã làm tròn nhiệm vụ". Nói như vậy là tự mãn. Với tinh thần của người quân nhân cách mạng, chúng ta phải nhận rằng đáng lẽ chúng ta thu được thắng lợi lớn hơn, nhưng vì chúng ta phạm nhiều khuyết điểm nên thắng lợi đó đã bị hạn chế một phần. Cần nhận rõ ý nghĩa thắng lợi của chiến dịch nhưng cũng cần nhìn rõ khuyết điểm của ta để sửa chữa; cần tránh bi quan, đồng thời phải tránh chủ quan tự mãn".

Nghiên cứu về quân đội ta, khi nói về sự giáo dục của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đối với cấp dưới sau mỗi chiến dịch, Tướng Pháp Raun Xalăng đã có lý khi nhận xét trong hồi ký rằng: "Mỗi lời phê bình của thủ trưởng đều thấm xuống dưới và các bài học vừa rút ra đều được vận dụng vào nhiệm vụ chiến đấu tiếp theo. Một quân đội như vậy là một công cụ chiến đấu không gì có thể so sánh được". 
------------------------------------------

1. Ý cụ Hòe muốn nói Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đỗ Cử nhân Luật.

2. Năm 1948: 5 chiến dịch, năm 1949: 10 chiến dịch (có 1 chiến dịch Thập vạn Đại sơn trên đất Trung Quốc), năm 1950: 7 chiến dịch.

3. Bài đăng trên báo Quân du kích ngày 31-5-1949.

4. Đó là phương châm: Du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ và bộ đội tập trung cần lấy đơn vị đại đội mà bố trí.

5. Xác định: Đại đội độc lập có nhiệm vụ bảo vệ địa phương (bảo vệ nhân dân, chống địch càn quét), phát động du kích chiến tranh, giúp đỡ du kích phát triển, chuẩn bị chiến trường cho bộ đội chủ lực, lấy tin tức, trị an, tiếp tế, giao thông, liên lạc, v.v..

6. Về du kích vận động chiến, xem định nghĩa của đồng chí Võ Nguyên Giáp ở mục 21, chương V.

7. Trong báo cáo tổng kết Chiến dịch Việt Bắc, Tổng Chỉ huy nhắc lại việc xác định vị trí tác dụng của tiểu đoàn tập trung trong mệnh lệnh bổ cứu (đề ngày 27-10-1947) như sau (lúc đầu gọi là tiểu đoàn độc lập lưu động): Mỗi trung đoàn giữ một tiểu đoàn không phân tán để đánh từng tiểu đoàn. Vũ khí toàn nhẹ. Có thể có 4 đại đội để đủ sức hoạt động. Tiểu đoàn này không có địa phương nhất định, không lệ thuộc đến nhiệm vụ cố định ở một địa phương nào và mang tính chất độc lập nên đi dần đến chủ động và được nhân dân cùng đại đội độc lập rất hoan nghênh. Đơn vị đánh tập trung của ta hiện tại là tiểu đoàn.

8. Cuối năm 1950, binh lực địch đã lên tới 24 vạn tên (tổ chức thành 124 tiểu đoàn), nhưng chỉ có 12 tiểu đoàn cơ động chiến lược (chừng 10%).

9. Trên thực tế, suốt 9 năm, viện binh từ Pháp sang ngày càng giảm (tính theo đơn vị tiểu đoàn): năm 1947: 25, năm 1949: 20, năm 1951: 10, năm 1953: 9, năm 1954: 4.

10. Chiến dịch đầu tiên phản công địch ở Việt Bắc mùa khô năm 1947, do Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ đạo.

11. Các chiến dịch Long Châu Hậu (10-1950), Cầu Ngang (10-1950), Bến Cát (11-1950), Lý Thường Kiệt (10-1951), Quảng Đà (8-1952), An Khê (1-1953), Quảng Nam (5-1953), tây nam Ninh Bình (11-1953), Lai Châu (12-1953), Trung Lào (12-1953 - 5-1954), Hạ Lào (1-4-1954), Thượng Lào (2-1954), Bắc Tây Nguyên (1-7-1954).

12. Tỷ lệ "mác búp đa" (mác xung kích) giảm dần, thay bằng vũ khí thu được của địch, phương tiện thông tin được tăng cường bằng máy thông tin chiến lợi phẩm, vũ khí trợ chiến và pháo đi cùng cũng từng bước được tăng thêm trước tình hình "cứng" dần của công sự địch.

13. Do điều kiện hạn hẹp mọi mặt của ta hồi đó cho nên mức tổ chức bộ đội chủ lực quy mô lớn nhất của ta trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp cũng chỉ dừng lại ở 6 đại đoàn bộ binh dự bị chiến lược. Trừ Đại đoàn 320 hoạt động chủ yếu ở phía nam vùng châu thổ sông Hồng và Đại đoàn 324 lấy chiến trường Khu 4 làm địa bàn hoạt động chủ yếu, còn 4 đại đoàn bộ binh chủ lực 304, 308, 312, 316 và Đại đoàn công binh - pháo binh 351 đều có mặt hầu như trong các chiến dịch của bộ từ năm 1951 đến năm 1954. Do vị trí quân sự - chính trị và do nỗ lực của cả ta và địch, cho nên suốt mấy năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, chiến trường chính Bắc Bộ luôn là nơi đọ sức có ý nghĩa quyết định giữa hai lực lượng vũ trang đối kháng chủ yếu, đó là các đại đoàn chủ lực của ta và các binh đoàn cơ động (GM) của địch, trong từng chiến dịch tiến công của ta cũng như trong các cuộc hành binh đối phó của địch, cho đến trận quyết chiến chiến lược cuối cùng quyết định số phận của kế hoạch Nava. Điều đó giải thích vì sao các chiến dịch do Tổng Tư lệnh trực tiếp chỉ huy đều mở trên miền Bắc Đông Dương (Bắc Bộ và Thượng Lào).

14. Sau này, qua hồi ức Đường tới Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại rằng, sau Hội nghị tổng kết Chiến dịch Biên giới, ba ông Trần Canh, Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp ngồi trước tấm bản đồ trải rộng, thấy quãng đường Cao Bằng - Hà Nội dài chừng 200 km, ông Trần Canh cho rằng với đà này chỉ cần một năm, qua ba chiến dịch là có thể giải phóng Thủ đô. Rõ ràng là cả bạn và ta đều chủ quan, nóng vội.

(Còn tiếp...)

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực