Về tăng cường sự lãnh đạo, quản lý đối với một số vấn đề quan trọng và bức xúc trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo của tỉnh hiện nay

Thứ năm, 14/03/2013 14:59

(ĐCSVN) - Ngày 31 tháng 01 năm 2013, Ban thường vụ tỉnh ủy (khóa XIV) đã ban hành Chỉ thị Số 21-CT/TU Về tăng cường sự lãnh đạo, quản lý đối với một số vấn đề quan trọng và bức xúc trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo của tỉnh hiện nay.

Chỉ thị nêu rõ:Những năm qua, nhất là từ khi có
Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 12/02/2008 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (
Khoá XIII) đến nay, sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh nhà đã được quan tâm chỉ đạo và đã có sự chuyển biến, tiến bộ rõ nét. Mạng lưới trường, lớp phát triển đều khắp, cơ bản đáp ứng được nhu cầu học tập của nhân dân; tỉnh cũng đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở; số trường đạt chuẩn quốc gia tăng nhanh. Hệ thống trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp - dạy nghề và mạng lưới các trung tâm học tập cộng đồng phát triển rộng khắp. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông những năm gần đây luôn đạt ở mức cao; số học sinh đoạt giải trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi khu vực và quốc gia ngày một nhiều hơn; tỉ lệ lao động qua đào tạo được nâng lên đáng kể. Đội ngũ các nhà giáo cũng được củng cố, tăng cường; đa số thầy, cô giáo có tâm huyết, gắn bó với nghề. Đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức được sâu sắc vị trí, vai trò quan trọng hàng đầu của giáo dục, đào tạo đối với sự nghiệp phát triển đất nước và tỉnh nhà, cũng như tương lai của con em và gia đình, nên ngày càng quan tâm nhiều hơn đến việc học tập của con em mình.

Tuy nhiên, công tác giáo dục và đào tạo của tỉnh hiện vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, cụ thể như:

Cơ sở vật chất chưa đáp ứng, thiếu phòng học, phòng chức năng để thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục mầm non, phổ cập cho trẻ 5 tuổi và dạy học 2 buổi/ngày. Các trường học nằm ở trung tâm huyện lỵ và thành phố Bạc Liêu hiện đang bị quá tải và hầu hết các trường phổ thông trên địa bàn tỉnh đều thiếu đất để bố trí sân chơi, bãi tập nên việc triển khai các hoạt động giáo dục thể chất, giáo dục ngoài giờ lên lớp v.v... thiếu đồng bộ.

Mạng lưới trường lớp tuy phát triển, nhưng lại manh mún, thiếu tập trung, nhất là khu vực nông thôn hiện đang tồn tại nhiều điểm trường quy mô nhỏ, sĩ số học sinh quá thấp, làm cho công tác quản lý chuyên môn không sâu sát; mặt khác, còn làm tăng nhu cầu về cơ sở vật chất, gây lãng phí vốn đầu tư và kinh phí hoạt động.

Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên tuy phát triển về số lượng, nhưng có một bộ phận phẩm chất, năng lực chuyên môn chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao, nên dẫn đến tình trạng vừa thừa, vừa thiếu; một số ít thiếu tâm huyết với nghề nghiệp nhưng chậm được sắp xếp, chấn chỉnh. Việc thu hút giáo viên giỏi, tuyển dụng những giáo viên trẻ, được đào tạo chính quy và bố trí điều động giáo viên đến công tác ở những địa bàn khó khăn... còn gặp nhiều vướng mắc, hạn chế.

Công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành của cấp uỷ, chính quyền và các ngành chức năng thiếu chặt chẽ, một số nơi buông lỏng hoặc khoán trắng cho ngành giáo dục; có nơi, có lúc thể hiện sự chồng chéo trong quản lý… nhưng chưa được xử lý, tháo gỡ kịp thời.

Việc quản lý giáo dục của các cấp học, đặc biệt là các đơn vị trường học, chưa thật sự sâu sát, thụ động, máy móc, có nơi, có lúc bị thả nổi... dẫn đến kết quả giáo dục và đào tạo chưa vững chắc, thiếu toàn diện; còn biểu hiện nặng lý thuyết - kém thực hành; dạy chữ - chưa đi đôi với dạy người; nặng phần dạy học - nhẹ phần tự học, tự rèn luyện; các hoạt động giáo dục kiến thức văn hoá, đạo đức, rèn luyện thể chất và thẩm mỹ chưa đồng bộ; quá tải về nội dung nên việc bố trí thời gian học tập, nghỉ ngơi, vui chơi cho học sinh không hợp lý; sự phối hợp hoạt động giáo dục của gia đình - nhà trường - xã hội chưa chặt chẽ, nên chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo đạt được chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

Việc phát hiện năng khiếu, bồi dưỡng nhân tài còn hạn chế, chưa có chính sách đầu tư mang tính đồng bộ và hệ thống; hoạt động giáo dục dân tộc, khuyết tật, vùng nông thôn sâu, giáo dục nền tảng (tiểu học và trung học cơ sở) hiện còn thấp kém, chất lượng chưa thật ổn định, kết quả thi chọn học sinh giỏi, tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng và những ngành nghề xã hội đang có nhu cầu còn đạt ở mức thấp so với cả nước và các tỉnh trong khu vực.

Tỷ lệ học sinh bỏ học còn ở mức cao, không ít học sinh nghèo, hoàn cảnh khó khăn phải nghỉ học sớm, chưa được quan tâm giúp đỡ kịp thời; công tác vận động mở lớp phổ cập, bổ túc, dạy nghề để thực hiện chủ trương phân luồng đào tạo sau trung học cơ sở, đặc biệt là ở khu vực nông thôn nhằm nâng cao trình độ và chất lượng nguồn nhân lực trẻ còn nhiều hạn chế.

* Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém là:

- Một số cấp uỷ, chính quyền nhận thức chưa đầy đủ quan điểm của Đảng về giáo dục - đào tạo trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, nên còn thiếu quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; chưa có những quyết sách, biện pháp đủ mạnh và phù hợp để cụ thể hoá quan điểm giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Công tác thông tin, tuyên truyền, vận động cũng còn nhiều hạn chế, chưa thực sự sâu rộng đến tất cả các đối tượng, giai tầng trong xã hội; vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa nhận thức thức được vai trò, tầm quan trọng của giáo dục - đào tạo, còn nặng tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, khoán trắng cho nhà trường, cho ngành giáo dục.

- Công tác quản lý giáo dục ở các đơn vị, trường học còn lỏng lẻo, chưa tạo được nề nếp trong hoạt động dạy và học; một bộ phận cán bộ, giáo viên thiếu tâm huyết, chưa thật sự chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ; mặt khác, sự nhìn nhận của xã hội về vị trí, vai trò của người giáo viên trong cơ chế thị trường chưa thật sự được tôn vinh, coi trọng. Những biểu hiện tiêu cực trong ngành giáo dục như: chạy trường, chạy lớp, đánh giá xếp loại học sinh không đúng thực chất... chưa được ngăn chặn và xử lý triệt để.

- Đội ngũ giáo viên được đào tạo chắp vá từ nhiều loại hình, qua nhiều giai đoạn khác nhau, nên trình độ không đồng đều. Công tác bồi dưỡng còn thiếu thường xuyên; ý thức tự học, tự rèn luyện để nâng cao năng lực chuyên môn và trau dồi phẩm chất, đạo đức của một bộ phận giáo viên còn kém... nên chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

- Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục, đào tạo còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nhưng hiệu quả sử dụng vốn còn thấp; thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục còn hạn chế, vướng mắc.

- Một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng nông thôn, đồng bào dân tộc chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình; chưa thường xuyên phối hợp chặt chẽ với nhà trường, tổ chức Đoàn, Đội trong các hoạt động giáo dục, nhất là giáo dục về đạo đức, lối sống; xây dựng ý thức tự học, tự rèn luyện phấn đấu để lập thân, lập nghiệp; trong đấu tranh ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập học đường.

Để thực hiện tốt Kết luận (số 51-KL/TW ngày 29-10-2012) Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, đồng thời để tăng cường sự lãnh đạo, quản lý đối với một số vấn đề quan trọng và bức xúc trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo của tỉnh hiện nay, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ yêu cầu các cấp, các ngành triển khai thực hiện tốt một số công việc chủ yếu sau đây:

1- Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, quán triệt sâu rộng trong các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân về quan điểm “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”; ưu tiên nguồn lực đầu tư cho giáo dục - đào tạo theo quan điểm “giáo dục đào tạo phải đi trước và được đầu tư trước”

- Các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cần tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền, vận động, nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân về vai trò quan trọng của giáo dục - đào tạo, nhân tố then chốt, quyết định đến sự phát triển của đất nước và của tỉnh, đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay.

- Cần chấn chỉnh, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, điều hành của chính quyền các cấp; sự phối hợp thực hiện nhiệm vụ của các sở, ngành, địa phương trong quản lý lĩnh vực giáo dục - đào tạo, nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, khoán trắng hoặc đùn đẩy trách nhiệm, đổ lỗi cho nhau; đề cao vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị, trường học, đi đôi với việc hoàn thiện cơ chế quản lý, đảm bảo tính công khai, dân chủ, minh bạch, sự kiểm tra giám sát của các cấp, các ngành và nhân dân.

- Làm tốt công tác quy hoạch mạng lưới trường lớp, kịp thời sắp xếp lại những điểm trường tạm bợ; chấn chỉnh tình trạng mở trường, mở lớp tràn lan, manh mún, bất hợp lý... nhằm tập trung nguồn lực đầu tư để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giáo dục và đào tạo.

- Đổi mới việc phân bổ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước theo hướng ưu tiên bố trí cho vùng lõm về giáo dục và khó khăn về kinh tế xã hội; hạn chế việc thành lập mới các cơ sở giáo dục công lập ở những nơi kinh tế - xã hội phát triển. Đồng thời, có chính sách thu hút, đa dạng hoá nguồn lực đầu tư từ các thành phần kinh tế để phát triển mạng lưới trường lớp; có chính sách tạo quỹ đất để xây dựng các công trình phục vụ cho giáo dục và đào tạo; tập trung bố trí các nguồn lực để phát triển giáo dục mầm non; khuyến khích phát triển loại hình trường mầm non tư thục nhằm khắc phục tình trạng quá tải, đáp ứng 100% nhu cầu học tập bán trú của trẻ từ 3 - 4 tuổi ở các phường nội ô thành phố Bạc Liêu, trung tâm các huyện lỵ và hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi trước năm 2015.

- Tiếp tục tháo gỡ khó khăn về tài chính cho các đơn vị trường học; tăng cường chỉ đạo kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh công tác quản lý thu, chi trong các cơ sở giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước và nguồn lực của xã hội đầu tư cho giáo dục. Chấm dứt tình trạng đặt ra các khoản thu không phù hợp, lạm thu và sử dụng không đúng mục đích trong các đơn vị, trường học.

- Tăng cường giáo dục năng khiếu, giáo dục chất lượng cao, nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học ngoại ngữ, chất lượng giáo dục dân tộc, chất lượng giáo dục của vùng nông thôn; thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo. Phấn đấu đến năm 2020, Bạc Liêu trở thành địa phương có chất lượng giáo dục tốt, có những cơ sở giáo dục chất lượng cao có sức thu hút cả vùng.

2- Tích cực chỉ đạo, triển khai thực hiện các nội dung Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 05/12/2011 của Bộ Chính trị

- Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho trẻ em đến trường mầm non được giáo dục và chăm sóc, giúp cho trẻ phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ trước khi bước vào lớp 1.

- Phấn đấu rút ngắn lộ trình đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Ưu tiên đầu tư, quan tâm phát triển giáo dục mầm non vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Huy động trẻ 5 tuổi đến trường đạt từ 98% trở lên. Trong đó, khu vực thành thị (thành phố, thị trấn) tỷ lệ bán trú đạt 90%, khu vực còn lại tỷ lệ bán trú đạt 85% trở lên.

- Duy trì và nâng mức độ đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, không ngừng nâng cao chất lượng để đạt chuẩn mức độ 2 trước năm 2020; Phấn đấu tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đúng độ tuổi đạt 90% trở lên năm 2015 và trên 95% năm 2020. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục trung học cơ sở, nâng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở đến trường đạt 90% năm 2015 và trên 95% năm 2020 so với số người trong độ tuổi.

- Tiếp tục thực hiện chính sách miễn giảm học phí, cung cấp sách vở học tập, cấp học bổng khuyến học… cho các đối tượng học sinh thuộc diện chính sách, người dân tộc, học sinh nghèo, trẻ em khuyết tật; đồng thời tập trung vận động các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia đóng góp hoặc nhận đỡ đầu các em học sinh nghèo, hoàn cảnh khó khăn được học tập, thấp nhất là phổ cập trung học cơ sở. Phấn đấu giảm tỷ lệ học sinh tiểu học bỏ học đến năm 2015 và những năm tiếp theo dưới 0,5%; tỷ lệ học sinh trung học cơ sở bỏ học đến năm 2015 dưới mức bình quân chung của khu vực và đến năm 2020 dưới mức bình quân chung của cả nước.

- Duy trì và nâng cao kết quả xoá mù chữ cho người dân trong độ tuổi từ 15 - 35; hàng năm, số người trong độ tuổi từ 36 đến hết tuổi lao động được xoá mù chữ đạt tỷ lệ 98% trở lên.

- Nâng cao chất lượng dạy và học cho các trung tâm giáo dục thường xuyên, bảo đảm cho số học sinh không đủ điều kiện học phổ thông và người lớn tuổi được tiếp tục đi học. Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng; xây dựng “xã hội học tập”. Tăng cường sự phối hợp giữa trung tâm giáo dục thường xuyên với các trường và các cơ sở đào tạo, dạy nghề; tăng tỷ lệ lao động nông thôn được đào tạo nghề. Thực hiện phân luồng sau trung học cơ sở vào học các trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề đạt 25%.

3- Tập trung đổi mới công tác quản lý, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, xây dựng kỷ cương, nề nếp trong hoạt động dạy - học và tiếp tục chấn chỉnh nhằm khắc phục cơ bản những tiêu cực trong thi cử và dạy thêm, học thêm

Uỷ ban nhân dân tỉnh cần khẩn trương ban hành quy định cụ thể về việc tổ chức quản lý các hoạt động dạy thêm, học thêm trên địa bàn theo tinh thần Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT ngày 16/5/2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Kịp thời tổ chức triển khai, chỉ đạo các cấp chính quyền và ngành giáo dục - đào tạo nghiêm túc tổ chức thực hiện; đồng thời tăng cường các biện pháp quản lý để đảm bảo chất lượng và hiệu quả hoạt động giáo dục chính khoá, tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém theo quy định. Không dạy thêm đối với học sinh đã được nhà trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày; không dạy thêm đối với học sinh tiểu học, trừ các trường hợp: bồi dưỡng về nghệ thuật, thể dục thể thao, rèn luyện kỹ năng sống.

- Tiếp tục đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác qui hoạch, lập và tổ chức thực hiện kế hoạch; đẩy mạnh thực hiện phân cấp quản lý, giao quyền tự chủ tài chính, tự chủ trong hoạt động chuyên môn, nhằm tạo động lực và tính chủ động của các đơn vị trường học.

- Tập trung chấn chỉnh xây dựng kỷ cương nề nếp trong quản lý chỉ đạo, trong hoạt động dạy - học, kiểm tra, đánh giá và trong thi cử. Nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, nghiêm chỉnh chấp hành các qui định chuyên môn, không ngược đãi, xúc phạm nhân phẩm học sinh và khơi dậy niềm tự hào trong mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên khi được tham gia cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, cho nhà trường.

- Thực hiện đồng bộ các giải pháp về quản lý chất lượng học sinh, tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và tổ chức dạy học phân hoá theo năng lực của học sinh, dạy học sát đối tượng, chú trọng bồi dưỡng học sinh khá giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém; nhằm tích cực góp phần nâng cao chất lượng thực và hiệu quả giáo dục - đào tạo.

4- Tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

- Tập trung quán triệt sâu rộng trong cán bộ quản lý, lãnh đạo, giáo viên và nhân viên, để tạo sự đồng thuận và có bước đi thận trọng, chặt chẽ, thích hợp nhằm đảm bảo cho Đề án "Tiếp tục sắp xếp đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo giai đoạn 2012 - 2015 trên địa bàn tỉnh" đạt yêu cầu đề ra.

- Mạnh dạn sắp xếp đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý theo hướng:

+ Ưu tiên phân công giảng dạy cho những giáo viên đáp ứng yêu cầu, có năng lực tốt về chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; không bố trí những giáo viên không đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ giảng dạy tiếp tục đứng lớp.

+ Những giáo viên làm nhiệm vụ giảng dạy nhưng dôi dư không bố trí đứng lớp hoặc không đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ giảng dạy thì tiến hành đánh giá, xếp loại để điều chỉnh phân công đảm nhiệm các chức danh khác còn thiếu trong nhà trường như: Thư viện, thiết bị, thí nghiệm, văn thư, kế toán, y tế học đường.

+ Phân công, bố trí cán bộ có phẩm chất, năng lực đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao để lãnh đạo, quản lý công tác giáo dục và đào tạo ở các cấp.

- Phấn đấu đến năm 2015:

+ Giải quyết cơ bản tình trạng vừa thừa, vừa thiếu giáo viên, nhân viên; đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý.

+ Có 100% giáo viên các cấp học đạt trình độ chuẩn; trong đó có 54% trên chuẩn; 100% cán bộ quản lý đương chức và 90% cán bộ, giáo viên diện quy hoạch kế cận được đào tạo, bồi dưỡng đạt chuẩn chức danh về chính trị, quản lý nhà nước, quản lý giáo dục, tin học, ngoại ngữ.

- Đến năm 2020 có trên 67% giáo viên trên chuẩn.

- Thường xuyên quan tâm lãnh đạo công tác xây dựng Đảng trong các đơn vị trường học gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" và tiếp tục đẩy mạnh việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Xây dựng đội ngũ nhà giáo không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà còn vững vàng về tư tưởng chính trị, gương mẫu về đạo đức và lối sống, "Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo" để học sinh noi theo.

- Tiếp tục củng cố, kiện toàn, nâng cao vai trò của các tổ chức Công đoàn, Đoàn, Đội; thường xuyên làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, công tác phát triển công đoàn viên, đoàn viên, đội viên trong các đơn vị trường học. Tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài liệu, kinh phí cho các tổ chức này hoạt động đạt hiệu quả cao.

- Đảm bảo thực hiện tốt các chính sách đãi ngộ, khen thưởng đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; phát huy tinh thần "Tôn sư trọng đạo", kịp thời tôn vinh những giáo viên, cán bộ quản lý giỏi, có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo ở địa phương; nhằm nâng cao ý thức phấn đấu trở thành giáo viên giỏi, nhà giáo ưu tú, mẫu mực.

- Tập trung làm tốt công tác quy hoạch và phát triển đội ngũ. Quan tâm xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách ưu tiên, ưu đãi hợp lý đối với cán bộ, giáo viên, đặc biệt là chính sách thu hút người tài chấp nhận đến công tác ở những địa bàn khó khăn; kịp thời triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ, giáo viên, trước hết là đội ngũ giảng viên, giáo viên ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, giáo viên dạy ngoại ngữ, giáo viên dạy trường trung học phổ thông chuyên và hệ thống các trường phổ thông chất lượng cao... tương xứng mục tiêu nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.

5- Tập trung phấn đấu nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, kịp thời phát hiện, phát triển năng khiếu, bồi dưỡng nhân tài, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, kỹ năng thực hành và năng lực sáng tạo cho học sinh

- Tăng cường dạy và học ngoại ngữ, tin học trong các cơ sở giáo dục. Triển khai thực hiện có hiệu quả: Kế hoạch thực hiện Đề án dạy và học ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2008 - 2020 (tổ chức thực hiện việc dạy và học bằng tiếng Anh một số môn học tại Trường Trung học phổ thông Chuyên Bạc Liêu, mời giáo viên nước ngoài về dạy tiếng Anh ở một số trường có điều kiện); Kế hoạch phát triển Trường trung học phổ thông Chuyên Bạc Liêu giai đoạn 2011- 2020; Kế hoạch triển khai xây dựng thí điểm và định hướng đầu tư phát triển hệ thống trường chất lượng cao trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu, giai đoạn 2012 - 2015 đã được tỉnh phê duyệt.

- Tiếp tục củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng khiếu; xúc tiến việc tổ chức thí điểm để mở rộng mạng lưới trường lớp chất lượng cao một cách có hệ thống, từ bậc tiểu học đến trung học phổ thông và tập trung nâng cao chất lượng dạy học, nhằm tích cực góp phần cải thiện kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông, thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia, khu vực và kết quả tuyển sinh đại học, cao đẳng.

- Quán triệt trong toàn thể cán bộ, giáo viên và học sinh về yêu cầu “dạy chữ” đi đôi với “dạy người”, dạy và học để làm người. Đẩy mạnh các hoạt động giáo dục tư tưởng, đạo đức, truyền thống, lối sống, kỹ năng thực hành, năng lực sáng tạo; giáo dục thể chất, giáo dục pháp luật, giáo dục trật tự an toàn giao thông, giáo dục giới tính và phòng chống dịch bệnh, ma tuý, các tệ nạn xã hội xâm nhập học đường... nhằm thiết thực góp phần tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động “Nhà trường văn hoá, nhà giáo mẫu mực, học sinh chăm ngoan”.

- Tăng cường phối hợp thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo giữa nhà trường, gia đình và xã hội, tập trung củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban đại diện cha mẹ học sinh ở các đơn vị, trường học, thật sự là cầu nối giữa nhà trường và gia đình trong việc giáo dục học sinh; quản lý và hỗ trợ để nâng cao ý thức tự học, tự rèn luyện về kiến thức văn hoá và đạo đức; triển khai tốt các hoạt động ngoài giờ lên lớp (ngoại khoá) để thu hút học sinh tham gia vào những sinh hoạt lành mạnh, bổ ích.

6- Triển khai thực hiện có hiệu quả Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2011 - 2020. Có cơ chế chính sách liên kết, thu hút để tạo nguồn nhân lực giỏi tham gia hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo ở địa phương. Sắp xếp, chấn chỉnh lại tổ chức hoạt động và đẩy mạnh công tác xúc tiến đào tạo, dạy nghề của các trường trung cấp, cao đẳng và đại học trên địa bàn

- Tiến hành rà soát việc thực hiện Quyết định số 32/2009/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu về xây dựng mạng lưới trường nghề giai đoạn 2011 - 2015 và tầm nhìn đến 2020. Trước mắt, tiến hành sáp nhập Trường Trung cấp nghề với Trường Cao đẳng nghề Bạc Liêu. Tập trung đầu tư phát triển, hiện đại hoá các trường đại học, cao đẳng, trung cấp trên địa bàn. Liên kết với các trường đại học khác trong và ngoài nước để mở rộng qui mô và ngành nghề đào tạo, thu hút giáo viên, giảng viên giỏi đến giảng dạy ở Bạc Liêu và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đào tạo, dạy nghề cho lực lượng lao động trẻ trong tỉnh và từng bước vươn ra các tỉnh lân cận trong khu vực.

- Tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh tổ chức hoạt động quản lý đào tạo, dạy nghề, đặc biệt là hoạt động liên kết đào tạo của các cơ sở giáo dục, các trường trung cấp, cao đẳng và đại học theo hướng đầu tư phát triển hợp lý, để khai thác, phát huy đúng tiềm lực, thế mạnh của tỉnh, phù hợp với nhu cầu của xã hội và chức năng nhiệm vụ được giao... nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo ở địa phương.

- Tập trung phát triển công tác nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Bạc Liêu gắn với hoạt động ứng dụng và chuyển giao kết quả cho các trung tâm, cơ sở sản xuất kinh doanh... để thiết thực phục vụ cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

7- Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục và đào tạo

- Thực hiện xã hội hoá giáo dục nhằm phát huy được tốt hơn tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục; tạo điều kiện cho mọi người dân, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người khuyết tật, người nghèo cùng được thụ hưởng thành quả giáo dục thực sự công bằng và hợp lý. Do đó, các chủ trương chính sách về xã hội hoá giáo dục cần được các cấp, các ngành, các cơ sở giáo dục thường xuyên quan tâm tuyên truyền sâu rộng, để giúp cho cán bộ và nhân dân nhận thức đúng, nhất trí cao và thực hiện có hiệu quả chủ trương này.

- Tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước cho giáo dục trẻ em khuyết tật, trẻ em dân tộc, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Khuyến khích các tổ chức từ thiện tham gia giáo dục và chăm sóc trẻ khuyết tật; nhân rộng các mô hình nuôi dạy trẻ mồ côi, trẻ em khuyết tật nhằm đảm bảo cho các trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh được chăm sóc và học hành.

- Đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và xúc tiến đầu tư, nhằm thu hút nguồn vốn của các thành phần kinh tế, đặc biệt là thu hút nguồn vốn ODA, FDI và các nguồn viện trợ khác. Tăng cường hoạt động, giao lưu học tập, trao đổi kinh nghiệm với các địa phương, mở rộng các hoạt động xúc tiến đầu tư, tìm kiếm cơ hội liên kết, hợp tác để mời các đối tác trong và ngoài nước đến tham gia đầu tư phát triển các cơ sở giáo dục - đào tạo có chất lượng, sớm đưa Bạc Liêu trở thành trung tâm đào tạo ngoại ngữ có chất lượng cao trong khu vực và mở rộng hệ thống trường lớp, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cho các hoạt động giáo dục trên địa bàn tỉnh.

- Củng cố, xây dựng Hội khuyến học, Hội tâm lý giáo dục, Hội Cựu giáo chức, Hội cha mẹ học sinh ở các địa phương, đơn vị trường học vững mạnh, để tích cực tham gia hiến kế, làm nòng cốt trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động khuyến học, khuyến tài, hỗ trợ các cơ sở giáo dục trong giảng dạy và học tập; xây dựng gia đình hiếu học, cộng đồng, dòng họ, cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị khuyến học... để tiến tới xây dựng và hoàn thiện xã hội học tập.

- Kịp thời phát hiện và nhân rộng những cách làm hay, các mô hình, điển hình tiên tiến trong quá trình tổ chức thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục. Kịp thời động viên, tôn vinh, khen thưởng đối với những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc tham gia đóng góp cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở địa phương.

8- Tổ chức thực hiện

- Căn cứ Kết luận Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XI và tinh thần Chỉ thị này, Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh, Ban cán sự đảng Uỷ ban nhân dân tỉnh, các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện hiệu quả.

- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ hướng dẫn việc học tập, quán triệt ở các cấp, các ngành; chủ trì, phối hợp với ngành giáo dục và đào tạo, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Mặt trận, các đoàn thể, các cơ quan thông tin đại chúng tổ chức tuyên truyền, phổ biến quán triệt sâu rộng tinh thần, nội dung Kết luận của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XI về giáo dục - đào tạo và Chỉ thị này đến các tầng lớp nhân dân; kịp thời phổ biến, nhân rộng các điển hình tiên tiến, động viên khen thưởng các tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong việc tham gia đóng góp để phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo ở địa phương.

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy chủ trì, phối hợp với sở Giáo dục và đào tạo theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; đề xuất với Ban Thường vụ Tỉnh ủy việc sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện định kỳ hằng năm.

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực