Liên kết trồng cây thuốc lá - một hướng giảm nghèo ở Cao Bằng (Ảnh: Đ.H)
Tỉnh Cao Bằng có 12 huyện và 1 thành phố với 199 xã, phường, thị trấn, trong đó có 164 xã thuộc vùng khó khăn theo Quyết định số 1049/QĐ-TTg ngày 26/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn. Dân số Cao Bằng có trên 52 vạn người, với 9 dân tộc chủ yếu, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 95%. Tỉnh Cao Bằng có 5 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ và 1 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao theo Quyết định số 293/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ được áp dụng cơ chế chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng theo Nghị quyết 30a. Cuối năm 2015, toàn tỉnh có 62.409 hộ nghèo/123.221 hộ chiếm 42,53%; có 12.110 hộ cận nghèo chiếm 9,83%. Tuy nhiên, nếu chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020, thì tình hình đời sống của người dân khu vực nông thôn đặc biệt là người nghèo còn rất khó khăn, thiếu thốn về các nhu cầu thiết yếu phục vụ đời sống. Cơ cấu kinh tế chủ yếu là kinh tế nông nghiệp, nên vấn đề giải quyết việc làm gắn với nâng cao thu nhập cho người lao động gặp nhiều khó khăn, nhất là việc làm cho lao động lúc nông nhàn. Kết cấu hạ tầng các xã và xóm còn nhiều hạn chế, mức độ tiếp cận với các dịch vụ như nước sạch, vệ sinh môi trường, nhà ở, thiết bị thông tin còn ở mức thấp.
Để thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo tại địa phương, Cao Bằng đã xác định cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền đối với công tác giảm nghèo bền vững. Xây dựng hệ thống các văn bản chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện chương trình; tổ chức quán triệt đầy đủ các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương và của tỉnh về công tác giảm nghèo trong các ban, ngành, đoàn thể và các địa phương, công tác giảm nghèo là nhiệm vụ thường xuyên của cả hệ thống chính trị và của chính bản thân người nghèo. Hằng năm, cấp ủy, chính quyền huyện, xã phải đăng ký phấn đấu mục tiêu giảm nghèo; đưa mục tiêu giảm nghèo vào tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu các địa phương.
Tổ chức tuyên truyền sâu rộng về các chủ trương, chính sách giảm nghèo của Đảng và Nhà nước trong mọi tầng lớp dân cư, từ đó để người dân nắm được thông tin nâng cao ý thức, trách nhiệm trong công tác giảm nghèo, khơi dậy ý chí, chủ động vươn lên của người nghèo; biểu dương, động viên kịp thời các gương điển hình có hiệu quả về giảm nghèo, phê phán các trường hợp lợi dụng chính sách, không có ý chí vươn lên, không muốn thoát nghèo
Triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình giảm nghèo; tiếp tục thực hiện tốt công tác phân cấp trao quyền cho địa phương, cơ sở để tạo sự chủ động và trách nhiệm trong việc thực hiện Chương trình. Tăng cường sự tham gia của người dân trong suốt quá trình thực hiện Chương trình từ khâu xác định đối tượng thụ hưởng đến khâu lập kế hoạch, kiểm tra, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện để đảm bảo tính công khai, minh bạch và tính trách nhiệm trong quá trình thực hiện. Luân chuyển hỗ trợ mô hình sinh kế có hiệu quả nhằm để nhân rộng cho nhiều hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo khác được tham gia.
Tập trung huy động các nguồn lực hỗ trợ cho công tác giảm nghèo, ưu tiên bố trí nguồn lực cho các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn. Đẩy mạnh chuyển giao khoa học kỹ thuật công nghệ cho người nghèo, tạo điều kiện, cơ hội cho người nghèo biết cách áp dụng khoa học kỹ thuật vào đời sống sản xuất tạo ra các sản phẩm tăng thu nhập, cải thiện đời sống.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các ngành, các cấp, các tổ chức đoàn thể, các đơn vị doanh nghiệp trong việc thực hiện công tác giảm nghèo. Phân công trách nhiệm giúp đỡ hộ nghèo; tạo điều kiện khuyến khích, động viên các hộ tham gia đăng ký thoát nghèo; tập trung ưu tiên hỗ trợ giúp đỡ những hộ đăng ký thoát nghèo. Tích cực xã hội hóa trong công tác giảm nghèo, tạo thành phong trào sâu rộng thu hút và động viên sự tham gia các tầng lớp dân cư trong việc thực hiện các chương trình giảm nghèo, hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo.
Tổ chức đánh giá kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo đảm bảo chất lượng, phản ánh đúng thực trạng tại địa phương; rà soát, thống kê, cập nhật, lưu trữ đầy đủ số liệu về giảm nghèo làm cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện các chính sách giảm nghèo đa chiều trên cơ sở xác định sự thiếu hụt của người nghèo ở các lĩnh vực: y tế, giáo dục, điều kiện sống (nhà ở, nhà vệ sinh, nước sinh hoạt), tiếp cận thông tin, bảo hiểm và trợ giúp xã hội, để có giải pháp hỗ trợ phù hợp nhu cầu của hộ nghèo, hộ cận nghèo, góp phần tăng tính hiệu quả của chính sách hỗ trợ, hạn chế tình trạng trông chờ, ỷ lại của đối tượng thụ hưởng.
Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, các cấp trong việc thực hiện công tác giảm nghèo. Thường xuyên kiện toàn, bổ sung kịp thời Ban chỉ đạo giảm nghèo các cấp, phân công nhiệm vụ phụ trách các địa bàn; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo các cấp đáp ứng yêu cầu hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Đối với các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, xã an toàn khu: tập trung thực hiện các chính sách ưu tiên hỗ trợ cho hộ nghèo, người nghèo dân tộc thiểu số; hộ nghèo, người nghèo sinh sống ở huyện nghèo, thôn, xã đặc biệt khó khăn, xã an toàn khu được hưởng các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, tập trung vào việc giải quyết về nhà ở, nhà vệ sinh, nước sinh hoạt, đất sản xuất, nhận khoán chăm sóc bảo vệ rừng và trồng rừng, đào tạo nghề, tạo việc làm tăng thu nhập, chính sách ưu đãi tín dụng, chính sách cử tuyển, chính sách học bổng, tiếp cận văn hóa, thông tin. Thực hiện có hiệu quả chính sách ưu đãi cao hơn về mức đầu tư, ưu tiên hỗ trợ đầu tư xã đặc biệt khó khăn, xã an toàn khu, thôn đặc biệt khó khăn về các công trình cơ sở hạ tầng nhỏ phục vụ điều kiện về giao thông, thủy lợi, phát triển sản xuất nâng cao thu nhập cho người dân để giảm nghèo bền vững…