Điện Biên nỗ lực giảm nghèo bền vững

Thứ tư, 29/03/2017 15:18
(ĐCSVN) - Điện Biên là một tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo còn cao so với cả nước. Vì vậy, việc xây dựng và triển khai các chương trình giảm nghèo là rất quan trọng và cần thiết.

Một mô hình trồng cao su ở Điện Biên (Ảnh: Đ.H)

Trong giai đoạn 2011 - 2015, tỉnh Điện Biên đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo và đạt kết quả quan trọng. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, cải thiện điều kiện sản xuất và nâng cao đời sống, tạo việc làm cho người lao động. Trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực, năng lực đội ngũ cán bộ các cấp được nâng lên. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 50,01% năm 2010 xuống còn 28,01% năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015); riêng tại 05 huyện nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 70,44% năm 2010 xuống còn 40,25% năm 2015.

Trong giai đoạn này tỉnh Điện Biên đã huy động được 12.088 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương và từ các đơn vị, doanh nghiệp để thực hiện các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo trên địa bàn; đã sử dụng lồng ghép các nguồn vốn để ưu tiên đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cho các xã đặc biệt khó khăn, các xã biên giới nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm cho người lao động; hỗ trợ đời sống, xóa đói giảm nghèo và sắp xếp ổn định dân cư, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, việc triển khai Chương trình giảm nghèo giai đoạn 2011 - 2015 vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc như: Hiệu quả chỉ đạo, triển khai thực hiện ở một số địa phương, cơ sở còn một số mặt hạn chế, chưa có nhiều giải pháp sáng tạo, mang tính đột phá nhằm xóa đói, giảm nghèo bền vững. Công tác điều tra, khảo sát xác định nhu cầu nghề cần đào tạo, việc dạy nghề gắn với giải quyết việc làm và chất lượng đào tạo nghề còn hạn chế; nguồn lực đầu tư cho các chương trình, dự án giảm nghèo chưa đáp ứng so với yêu cầu. Tiến độ triển khai một số chương trình, dự án còn chậm; một số dự án đầu tư dàn trải, hiệu quả chưa cao.

Công tác điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo ở một số nơi thiếu chặt chẽ, chưa khách quan, trung thực. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhưng chưa bền vững; xuất khẩu lao động đạt thấp; tỷ lệ người nghiện các chất ma túy cao; hiệu quả cai nghiện ma túy thấp, tỷ lệ tái nghiện cao. Chính sách giảm nghèo thiếu tính liên kết, thống nhất, việc ban hành và hướng dẫn một số chính sách còn chậm và bất cập; một số chính sách giảm nghèo có sự chồng chéo về đối tượng, nội dung, địa bàn; các chính sách giảm nghèo đặt mục tiêu cao, chưa gắn với nguồn lực; chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015 chưa tính đến chỉ số lạm phát, chuẩn nghèo về thu nhập chưa phản ánh được nghèo do theo mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản.

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, tỉnh đã đề ra nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung trên một số mặt: Xác định công tác giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị quan trọng, tập trung lãnh đạo chỉ đạo, làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân, hộ gia đình tự nguyện đăng ký cam kết vươn lên thoát nghèo. Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hàng năm; thường xuyên nắm tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để có giải pháp cụ thể, thoát nghèo bền vững.

- Tập trung phát triển kinh tế - xã hội, tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận thuận tiện với các dịch vụ xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn; tiếp tục thực hiện công tác xuất khẩu lao động; đẩy mạnh tạo việc làm tại thị trường trong nước; có chính sách hỗ trợ xe đưa lao động của tỉnh đi làm việc tại các khu công nghiệp trong nước và đưa, đón người lao động về nghỉ tết Nguyên đán hàng năm, góp phần giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững.

Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, cứu trợ kịp thời các đối tượng xã hội bị thiên tai, lũ lụt, mất mùa; thực hiện chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu. Làm tốt công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, giúp đỡ trẻ em mồ côi, người khuyết tật, người cao tuổi, gia đình chính sách; Triển khai thực hiện tốt Đề án xây dựng nông thôn mới. Giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc;

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc với các đoàn thể quần chúng và chính quyền; phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín, cá nhân tiêu biểu ở cơ sở trong công tác xóa đói giảm nghèo. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính; nâng cao năng lực và trách nhiệm trong thực thi công vụ của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu; các cấp, các ngành chủ động xây dựng kế hoạch, cụ thể hóa chương trình giảm nghèo của địa phương; chú trọng công tác kiểm tra, giám sát.

Tăng nguồn lực đầu tư, thực hiện đa dạng hóa các nguồn vốn thực hiện chương trình, tăng cường huy động vốn từ ngân sách địa phương, tích cực huy động sự đóng góp của các doanh nghiệp và sự vận động của các cá nhân trong và ngoài tỉnh; điều chỉnh chính sách để tiết kiệm nguồn lực, giảm bớt chính sách trợ cấp cho không, chính sách hỗ trợ nhỏ lẻ tạo tâm lý trông chờ, ỷ lại và tốn kém chi phí triển khai thực hiện (như: chính sách hỗ trợ tiền điện, chính sách hỗ trợ hộ nghèo vùng khó khăn theo Quyết định 102/QĐ-TTg, chính sách hỗ trợ dầu hỏa thắp sáng…).

Thực hiện chính sách hỗ trợ có điều kiện gắn với đối tượng, địa bàn và thời gian thụ hưởng. Mở rộng triển khai xây dựng các mô hình giảm nghèo theo nguyên tắc hỗ trợ có hoàn trả hoặc cam kết đối ứng, gắn trách nhiệm, quyền lợi của người tham gia mô hình, khi tham gia mô hình người dân phải bỏ một phần vốn, công sức hoặc có nghĩa vụ hoàn trả để nhân rộng. Đồng thời, khi tham gia mô hình các hộ dân được nắm bắt chính sách về phát triển kinh tế - xã hội, nhân rộng các mô hình giảm nghèo hiệu quả, phù hợp nhằm nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh tạo cho người nghèo, hộ nghèo tiếp cận các chính sách, nguồn lực thị trường. Trao đổi học tập kinh nghiệm lẫn nhau về phát triển kinh tế hộ gia đình.

Tăng nguồn vốn tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, điều chỉnh đối tượng và mức vay lãi suất, tạo cơ chế chính sách khi người dân tham gia mô hình được hỗ trợ vay vốn với mức vay cao hơn, đồng thời hạ mức lãi suất và thời gian ân hạn trả nợ; tạo cơ chế chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân xây dựng các loại tổ hợp sản xuất, hợp tác xã sử dụng các thành viên là hộ nghèo, hộ cận nghèo được ưu tiên vay vốn. Gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ nông sản trên cơ sở phát triển các hình thức hợp tác xã, liên kết đa dạng giữa hộ gia đình với các tổ hợp tác và doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia. Khuyến khích phát triển mô hình liên kết giữa hộ nông dân sản xuất với tổ chức tín dụng, tổ chức khoa học, công nghệ và doanh nghiệp.

Ưu tiên nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng và phát triền, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó ưu tiên các công trình có tính lan tỏa, bảo đảm kết nối các trung tâm kinh tế, các vùng kinh tế trọng điểm. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với phát triển kinh tế xã hội; phát triển nguồn nhân lực phải nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người dân, chính sách đãi ngộ như tiền lương, tiền công, bảo đảm an sinh xã hội; tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân…

Đ.H
Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực