Xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), ký kết Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), cùng nhiều Hiệp định thương mại tự do khác, đặt nước ta vào vị thế mới trên bản đồ kinh tế khu vực và thế giới. Năm 2015, kinh tế thế giới đã dần phục hồi, các quan hệ kinh tế ngày càng được đẩy mạnh, thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp. Kinh tế nước ta đã từng bước ra khỏi tình trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng, nhưng còn nhiều khó khăn; kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc; nợ công tăng, nợ xấu đang giảm dần song vẫn còn ở mức cao, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; nhiều chỉ tiêu và mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại như chưa mong muốn.
Lắp ráp ô tô tại Nhà máy lắp ráp ô tô Hyundai Thành Công Việt Nam (Nguồn: baogiaothong.vn)
Từ định hướng chủ đạo nêu trong chủ đề Đại hội: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”; trên cơ sở kết quả các nghiên cứu của nhiều Đề án và tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn 30 năm đổi mới công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; “Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế; sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại" theo tinh thần chủ đạo Đại hội XII của Đảng, chặng đường phát triển kinh tế - xã hội 30 năm đổi mới (1986-2016), những thành tựu đạt được trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là hết sức quan trọng, có ý nghĩa lịch sử; đồng thời những tồn tại hạn chế cũng được làm rõ, hiệu quả nền công nghiệp nước nhà phát triển còn rất khiêm tốn, tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành công nghiệp - xây dựng của nước ta có khoảng cách so với một số nước trong ASEAN và khu vực.
Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch đề ra. Kinh tế tăng trưởng chưa cao hơn so với 5 năm trước. Cơ cấu ngành nghề, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và lao động của doanh nghiệp. Đội ngũ doanh nhân từ khởi nghiệp đến thành công còn hạn chế; năng lực dự báo, kiến thức, tiếp cận thị trường, sản xuất kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, tính tuân thủ hợp tác không cao,... Một trong những nguyên nhân cơ bản của những hạn chế là việc tổng kết lý luận, thực tiễn về xây dựng hệ thống chính sách, đánh giá, rà soát, sửa đổi, điều chỉnh bổ sung, nâng cao tính khả thi; xác định luận cứ, đổi mới tư duy về xây dựng chính sách phù hợp với tiêu chuẩn của toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Tuy đã có nhiều chính sách được ban hành nhưng chưa đồng bộ, thậm chí có chính sách chưa đi vào nhiều trong cuộc sống, một số chính sách cốt lõi lại chưa được quan tâm như chính sách đối với các ngành công nghiệp kỹ thuật công nghệ cao, công nghiệp vật liệu là những lĩnh vực cốt lõi, nền tảng cho tất cả các ngành sản xuất khác phát triển, tạo ra các chuỗi giá trị, sản phẩm, năng lực cạnh tranh; nhìn chung các thị trường sản xuất trong nhiều năm qua nhỏ hẹp chưa gắn với thị trường khoa học công nghệ; thị trường phát triển công nghiệp vật liệu chưa được quan tâm đúng mức, chủ yếu vẫn là nhập khẩu, phụ thuộc phần lớn vào các nền kinh tế bên ngoài, cho nên chúng ta chưa có nhiều sản phẩm chủ lực quốc gia, chưa có sản phẩm cạnh tranh quốc gia, chưa tham gia được vào các chuỗi sản xuất của khu vực và quốc tế, giá trị gia tăng hầu hết trong các sản phẩm của Việt Nam đều chiếm tỷ trọng rất thấp, nguồn lực chưa được tập trung, hệ thống chính sách chưa hấp dẫn, thiếu những động lực cho công nghiệp quốc gia phát triển.
Với những hạn chế nêu trên, nếu chúng ta không đổi mới tư duy xây dựng chính sách công nghiệp quốc gia, thì Việt Nam vẫn là đất nước gia công và lắp ráp sản phẩm, là người “làm thuê” cho nhà sản xuất nước ngoài trên đất nước của mình, tình trạng này kéo dài sẽ dẫn tới thiếu tính độc lập tự chủ và khi lợi thế nhân công giá rẻ không còn giá trị thì Việt Nam sẽ không còn là địa bàn hấp dẫn đầu tư nước ngoài, kinh tế nước ta sẽ mất dư địa tăng trưởng và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa khó đạt được mục tiêu như mong muốn.
Do vậy, trong giai đoạn 2016 - 2025, chính sách công nghiệp quốc gia phải tạo động lực để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, coi đây là nhiệm vụ trung tâm, quan trọng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong thời gian tới; cần xác định mục tiêu, nội dung, đường lối, mô hình về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đảm bảo tính khả thi và hiện thực.
Cơ cấu lại hệ thống chính sách công nghiệp
Cùng với các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tiếp tục thực hiện có hiệu quả 3 khâu đột phá chiến lược của Đại hội XI, thì đồng thời tiến hành cơ cấu lại hệ thống chính sách về kinh tế trong đó đó cần cơ cấu lại hệ thống chính sách công nghiệp quốc gia, hoàn thiện bổ sung để phát triển công nghiệp quốc gia trong giai đoạn tới. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các nhóm chính sách công nghiệp đã ban hành như: chính sách công nghiệp năng lượng, công nghiệp dầu khí, công nghiệp cơ khí, công nghiệp chế tạo, công nghiệp ô tô, tàu biển, máy công nghiệp, công nghiệp khoáng sản, công nghiệp giấy, da giầy, dệt may, hoá chất, y dược, thực phẩm đồ uống, cà phê, cao su...
Tiến hành bổ sung xây dựng hệ thống các nhóm chính sách mới như: công nghiệp công nghệ cao; công nghiệp công nghệ số, công nghiệp phần mềm; nhóm chính sách công nghiệp vật liệu và vật liệu mới, nhóm chính sách công nghiệp quốc phòng an ninh...
Song song với việc định hướng chính sách công nghiệp quốc gia cần quan tâm định hướng hoàn thiện và xây hệ thống chính sách công nghiệp hỗ trợ như: Công nghiệp văn hoá, công nghiệp dịch vụ, công nghiệp du lịch, môi trường, đô thị hoá; nhằm đảm bảo cho các ngành công nghiệp quốc gia phát triển đồng bộ, nhanh, hiệu quả và bền vững.
Chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam phải xây dựng đồng bộ, tuân thủ đầy đủ các quy luật khách quan của cơ chế thị trường gắn liền với phát triển bền vững, đổi mới thể chế, cải cách nền hành chính quốc gia, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư, công nghệ, đảm bảo vững chắc kết quả từng bước của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với quá trình đô thị hoá, tránh nguy cơ tụt hậu kinh tế ngày càng xa với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chính sách công nghiệp quốc gia phải phát huy tối đa các nguồn lực trong nước (nội lực, đóng vai trò quyết định), đồng thời thu hút có hiệu quả các nguồn lực nước ngoài (ngoại lực, đóng vai trò quan trọng) cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát huy vai trò tích cực của thị trường trong phân bổ các nguồn lực cho phát triển công nghiệp. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng.
Chính sách phát triển công nghiệp quốc gia lấy khoa học và công nghệ là nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức; khuyến khích các dự án sử dụng công nghệ cao, chuyển nhanh sang kinh tế tri thức để tạo được bước nhảy vọt phát triển về công nghiệp. Coi trọng yếu tố nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, từ đó đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Chính sách phát triển công nghiệp được xây dựng phải tuân thủ và đảm bảo năng lực cạnh tranh, thực hiện các cam kết, hiệp định song phương, đa phương đã tham gia, ký kết. Chính sách phát triển công nghiệp phải đảm bảo sự gắn kết giữa phát triển công nghiệp với thương mại, đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, hiện đại hóa quản lý và phát triển đô thị. Gắn sản xuất với thị trường, gắn thị trường công nghệ với thị trường sản xuất. Chú trọng tạo lập và phát triển các thị trường sản xuất. Thị trường sản xuất được xem là gốc, khu vực trực tiếp sản xuất có tính cạnh tranh tạo ra sản phẩm, hàng hóa, tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng với mục đích để trao đổi, mua bán, bao gồm nhiều các thị trường sản xuất thị trường như: thị trường sản xuất năng lượng, ô tô, tàu biển, xăng dầu, linh kiện, phụ kiện, cơ khí chế tạo, sắt thép, vật liệu, lúa gạo, cà phê, dược phẩm, y tế... trong đó quan trọng nhất là thị trường nguyên, nhiên, vật liệu là “lương thực” của các thị trường sản xuất”.
Để thực hiện định hướng và quan điểm phát triển nêu trên, tác giả nhấn mạnh một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, nguồn lực để thực hiện định hướng chiến lược phát triển công nghiệp quốc gia. Trước hết, chúng ta cần đẩy mạnh tích lũy nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa thông qua điều chỉnh chính sách tiêu dùng phù hợp. Đẩy mạnh thực hiện Chương trình người Việt Nam dùng hàng Việt Nam (quán triệt đến từng tổ chức và cá nhân) đồng thời với việc thực hiện các biện pháp nhằm hạn chế nhập khẩu sản phẩm phục vụ tiêu dùng thông qua các hàng rào kỹ thuật và Hiệp hội người tiêu dùng.
Thực hiện chính sách tỷ giá phù hợp (không theo đuổi chính sách đồng nội tệ mạnh) để đẩy mạnh xuất khẩu, từ đó tạo thêm nguồn vốn để tích lũy; đối với các khoản nợ nước ngoài, thực hiện các biện pháp trích dự phòng rủi ro tỷ giá khi chúng ta chủ động thực hiện điều chỉnh tỷ giá đồng nội tệ. Phát triển hợp lý giữa công nghiệp hóa và đô thị hóa, đầu tư cân đối giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa.
Sử dụng hợp lý nguồn vốn từ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (thoái vốn, bán cổ phần nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước) để đầu tư, hình thành một số tập đoàn công nghiệp mạnh, đặc biệt là trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh; đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp công nghiêp phần mềm phát triển mạnh (sử dụng chất xám của con người Việt Nam).
Thứ hai, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ mới thông qua việc điều chỉnh cơ chế quản lý và nghiệm thu, ứng dụng đề tài khoa học công nghệ. Khoản chi cho nghiên cứu phát triển hàng năm cần được định hướng tập trung cho các ngành công nghiệp chủ yếu, cụ thể trong thời gian tới cần tập trung vào các lĩnh vực: công nghệ lưỡng dụng cả quốc phòng và dân sự (chú trọng công nghiệp nền tảng, cơ khí chính xác và tự động hóa, công nghiệp vật liệu và chế tạo), công nghệ phục vụ công nghiệp hóa nông nghiệp – nông thôn (công nghiệp chế biến nông sản); công nghệ sinh học (giống cây trồng - vật nuôi, công nghiệp dược phẩm). Đề tài nghiên cứu khoa học phải có đơn vị ứng dụng cụ thể, ưu tiên giao công tác nghiên cứu khoa học cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, các nhà doanh nghiệp. Quản lý kết quả nghiên cứu đề tài cần được tổ chức thống nhất và công khai, để các địa phương, các doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận bình đẳng cơ hội nghiên cứu và tiếp nhận kết quả nghiên cứu của các đề tài.
Quy định rõ các điều kiện ưu đãi gắn với việc việc chuyển giao công nghệ, đặc biệt là việc chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp trong nước. Thay đổi các tiêu chí đánh giá trình độ khoa học công nghệ của các công nghệ được chuyển giao, trong đó chú trọng tiêu chí giá trị gia tăng trong sản phẩm được chế tạo bởi công nghệ được chuyển giao (tránh trường hợp gia công lắp ráp sản phẩm công nghệ cao được hưởng chế độ cao như đối với công nghệ sản xuất, chế tạo ra sản phẩm công nghệ cao). Thí điểm việc nghiên cứu, chuyển giao công nghệ phục vụ công nghiệp lưỡng dụng cho các doanh nghiệp dân sự. Thúc đẩy hình thành thị trường khoa học công nghệ, mở rộng các điều kiện thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực khoa học công nghệ, để sản phẩm khoa học công nghệ sớm ra thị trường.
Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước. Đẩy mạnh thực hiện đổi mới phương thức giáo dục và đào tạo; chú trọng trong giáo dục đạo đức và tinh thần dân tộc cho mọi đối tượng, đặc biệt là thế hệ thanh niên và cán bộ, công chức Nhà nước. Việc xây dựng nguồn nhân lực cần thực hiện đầy đủ ở các cấp, các ngành. Thực hiện đầy đủ các nguyên tắc thị trường trong giáo dục đào tạo và dạy nghề, Nhà nước thực hiện chế độ trợ cấp trực tiếp cho các đối tượng hưởng chính sách (hộ nghèo, gia đình dân tộc...). Đẩy mạnh cải cách hành chính, tinh giảm biên chế và ứng dụng tin học trong quản lý hành chính Nhà nước; thực hiện xã hội hóa cung cấp dịch vụ công thông qua đấu thầu. Tăng cường công tác giám sát của Quốc hội, xây dựng cơ chế giám sát của người dân và các tổ chức xã hội đối với các hoạt động của cơ quan Nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư công.
Để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng CNH, HĐH nhằm xây dựng nền tảng, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại để thực hiện mục tiêu "... sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại“, công nghiệp quốc gia cần một hệ thống chính sách đồng bộ và hiệu quả. Thực tiễn cho thấy, chúng ta đã có nhiều chính sách, nhưng lại thiếu những chính quan trọng, phù hợp; dường như, ngoài một số ít chính sách có hiệu quả, có tác động tạo sự đột phá, thì nhiều chính sách được ban hành còn chưa kịp thời hoặc có nhưng ít tác dụng, thậm chí có ngành, lĩnh vực cần nhưng chưa có chính sách, như chính sách công nghiệp vật liệu, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp công nghệ sinh học.
Việc xây dựng chính sách phải dựa trên cơ sở định hướng và mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn. Các ưu đãi trong phát triển cần phải được phân tích chi phí - lợi ích và phân tích chia sẻ lợi ích, rủi ro giữa các bên có quyền và lợi ích liên quan; đánh giá tác động và tính hiệu quả cũng như tác động đến tổng thể nền kinh tế nói chung và các ngành kinh tế nói riêng. Trên cơ sở định hướng, cần đẩy mạnh giám sát quá trình tổ chức thực hiện, kịp thời điều chỉnh để đạt được mục tiêu. Có như vậy, chúng ta mới có thể tạo nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững, giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, có điều kiện để bảo vệ Đảng và Nhà nước trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập quốc tế./.