​Thích ứng với đại dịch để thúc đẩy phát triển kinh tế

Thứ năm, 21/10/2021 12:48
(ĐCSVN) - Mặc dù nền kinh tế nước ta tăng trưởng tốt ở mức 5,64% trong 6 tháng đầu năm 2021, cao hơn tốc độ tăng 1,82% của 6 tháng đầu năm 2020, nhưng đã phải đối mặt với khó khăn rất lớn cả từ bên ngoài cũng như bên trong, nhất là dịch bệnh COVID-19 bùng phát lần thứ 4, dẫn tới GDP 9 tháng năm 2021 chỉ tăng 1,42%.
Hoạt động sản xuất tại Nhà máy đóng tàu Hạ Long (Ảnh: Đặng Hiếu) 

Nhìn chung, tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm được thúc đẩy bởi sự phục hồi của khu vực công nghiệp, với tốc độ tăng trưởng ở mức khoảng 8,36% (theo số liệu của Tổng cục Thống kê), nhờ mở rộng sản xuất chế biến, chế tạo. Một phần nào đó, tăng trưởng cũng được thúc đẩy bởi kết quả tốt từ khu vực nông nghiệp (tăng 3,82%) nhờ điều kiện thời tiết thuận lợi và dịch tả lợn châu Phi đã được khống chế. Ngược lại, khu vực dịch vụ vẫn chưa quay lại tốc độ tăng trưởng trước đại dịch (giảm 0,69%), một phần do khu vực này nhạy cảm với các biện pháp hạn chế đi lại trong các đợt bùng phát dịch COVID-19. Từ góc độ chi tiêu, tăng trưởng đạt được nhờ vào tiêu dùng tư nhân và một phần nào đó vào đầu tư tư nhân, trong khi đó Chính phủ đã thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt hơn.

Nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi đợt dịch lần thứ 4

Mặc dù có khả năng chống chịu tương đối tốt trong 6 tháng đầu năm, nhưng nền kinh tế nước ta đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi đợt bùng phát dịch lần thứ 4, đã dẫn tới tốc độ tăng trưởng GDP của quý III/2021 giảm 6,17% so với cùng kỳ năm 2020.

Đại dịch cũng đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống hàng ngày của người lao động, doanh nghiệp và hộ gia đình. Dịch COVID-19 diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình lao động, việc làm quý III; lao động đang làm việc trong nền kinh tế giảm mạnh so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước - lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc quý III/2021 giảm 2,4 triệu người so với quý trước và giảm 2,5 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động tăng cao nhất kể từ quý I/2020. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý quý III/2021 là 4,39%, tính chung 9 tháng năm 2021 là 2,67%.

Có thể thấy, những tác động này không dễ đo lường vì chúng thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào quy mô của đại dịch và mức độ nghiêm ngặt của các hạn chế đi lại. Mặc dù vậy, đáng chú ý là nhiều cá nhân đã và đang phải gánh chịu khó khăn kinh tế ngày càng lớn do tình hình kinh tế trong nước đang có chiều hướng xấu đi trong vài tháng qua. Chẳng hạn, thị trường lao động tuy chống chịu đối vững trong năm đầu của đại dịch, nhưng xu hướng của những tháng gần đây về việc làm và thu nhập của lao động bắt đầu phản ánh tác động của đợt bùng phát dịch tháng 4, khi mà dòng người đổ về quê với lượng rất lớn.

Về kinh tế đối ngoại, cả cán cân thương mại hàng hóa và cán cân vãng lai đã trở nên xấu đi. Nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu, trong khi cán cân dịch vụ tiếp tục bị ảnh hưởng tiêu cực bởi việc đóng cửa biên giới quốc gia đối với hầu hết khách quốc tế. Khu vực kinh tế đối ngoại đã mất đi một phần động lực, vì dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 9 tháng năm 2021 ước tính đạt 13,28 tỷ USD, giảm 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Cán cân thương mại hàng hóa đã chuyển sang thâm hụt sau khi đạt kết quả thặng dư cao chưa từng có của năm 2020 (19,1 tỷ USD), tính chung 9 tháng năm 2021, cán cân thương mại hàng hóa nhập siêu 2,13 tỷ USD. Thực tế này có lẽ do các đơn vị xuất khẩu phải đối mặt với tình trạng đứt gãy do đại dịch tái bùng phát, buộc họ phải đóng cửa nhà máy hoặc chỉ hoạt động cầm chừng, cũng như phải đối mặt với áp lực cạnh tranh ngày càng lớn từ những quốc gia khác có các hoạt động sản suất đang phục hồi mạnh mẽ hơn.

Tốc độ tăng trưởng năm 2021 có thể đạt thấp...

Từ những nhân tố trên, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam dự báo nền kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng khoảng từ 2,0 - 2,5%, thấp hơn đáng kể so với dự báo 4,8% tại thời điểm tháng 8/2021. Và, nền kinh tế sẽ hướng dần về tốc độ tăng trưởng ở mức cao hơn từ năm 2022 trở đi. Dự báo mới mới được đưa ra dựa trên giả định rằng đợt bùng phát dịch hiện nay sẽ dần được kiểm soát, tạo điều kiện để nền kinh tế phục hồi trong quý IV. Giai đoạn phục hồi cũng sẽ được hỗ trợ bằng việc đẩy nhanh chiến dịch tiêm vắc-xin diện rộng, sao cho ít nhất 70% dân số trưởng thành được tiêm chủng vào giữa năm 2022, giúp ngăn ngừa những đợt bùng phát dịch nghiêm trọng mới và hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như các hoạt động của lĩnh vực dịch vụ dần được khôi phục trở lại.

Trong thời gian còn lại của năm 2021, chính sách tiền tệ vẫn sẽ là nới lỏng thông qua triển khai thực hiện một số công cụ chính sách khác nhau và cho phép tái cơ cấu các khoản nợ. Chính phủ có kế hoạch đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đầu tư công bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Các dự án này hiện tuy đang gặp những khó khăn ban đầu do các hạn chế đi lại liên quan đến đợt bùng phát dịch tháng 4, nhưng dự kiến sẽ được triển khai hết tốc lực trong quý IV. Các cấp có thẩm quyền cũng cần mở rộng hỗ trợ tài chính thông qua kết hợp giữa hỗ trợ trực tiếp bằng tiền mặt và trợ giá, như đã bắt đầu thực hiện từ đầu tháng 7, mặc dù kết quả triển khai có tốt hay không còn phụ thuộc vào phạm vi của gói hỗ trợ và khả năng tiếp cận những người lao động bị mất việc làm. Đối với khu vực kinh tế đối ngoại, dự báo trên giả định rằng quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu tiếp tục diễn ra sẽ đảm bảo duy trì nhu cầu cao đối với hàng hóa sản xuất tại Việt Nam ở những thị trường xuất khẩu chủ lực.

Khi nền kinh tế hồi phục, các chính sách hỗ trợ sẽ dần được gỡ bỏ. Từ năm 2022 trở đi, cơ quan thực hiện chính sách tiền tệ sẽ quay lại với quan điểm cẩn trọng nhằm cân đối giữa mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và mục tiêu kiểm soát lạm phát, đồng thời vẫn theo dõi chặt chẽ sức khỏe của khu vực tài chính. Trong trung hạn, các biện pháp củng cố tài khóa sẽ lại được thực hiện để đảm bảo bền vững nợ. Các cấp có thẩm quyền cần cải thiện hiệu quả thu ngân sách và hiệu suất chi tiêu, đặc biệt là chất lượng đầu tư công, nhằm đáp ứng sự gia tăng dự kiến về cơ sở hạ tầng và các dịch vụ xã hội có chất lượng mà Việt Nam sẽ cần trong thập niên tới.

Tuy nhiên, dự báo trên cần nhìn nhận thận trọng vì vẫn còn những nguy cơ nghiêm trọng về quy mô và thời gian diễn ra đại dịch, trong đó có sự xuất hiện của các biến thể mới và tốc độ tiêm vắc-xin ở Việt Nam và ở các quốc gia khác trên thế giới. Nếu những rủi ro đó trở thành hiện thực, quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam sẽ chậm lại.

... và triển vọng của nền kinh tế

Mặc dù triển vọng kinh tế của Việt Nam vẫn tích cực nhưng các cấp có thẩm quyền cần xử lý những rủi ro cao về tài khóa, tài chính và xã hội, bao gồm: Xử lý những hệ quả xã hội của đại dịch. Tác động của đại dịch COVID-19 đến thị trường lao động và các hộ gia đình đã trở nên trầm trọng hơn sau đợt bùng phát dịch tháng 2 và tháng 4. Đại dịch không chỉ làm giảm thu nhập của người lao động mà còn tạo ra bất bình đẳng sâu sắc hơn do có tác động khác nhau đến các nhóm thu nhập, ngành nghề, giới và địa bàn khác nhau. Các cấp có thẩm quyền cần cân nhắc tăng cường các chương trình đảm bảo xã hội, về phạm vi bao phủ, đối tượng mục tiêu và mức hỗ trợ, nhằm đảm bảo những nạn nhân hiện tại và tương lai của cú sốc kinh tế và dịch bệnh nhận được hỗ trợ đầy đủ.

Cảnh giác với rủi ro khu vực tài chính đang tăng lên do khủng hoảng. Mặc dù tín dụng ngân hàng mới hoặc được tái cơ cấu cung cấp hỗ trợ đáng hoan nghênh cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng, nhưng cũng góp phần chuyển giao rủi ro từ khu vực kinh tế thực sang khu vực tài chính. Cơ quan thực hiện chính sách tiền tệ sẽ cần thận trọng với rủi ro nợ xấu đang gia tăng, đặc biệt ở các ngân hàng có mức vốn hóa chưa đảm bảo trước đại dịch. Đây là lúc cần thông qua một kế hoạch giải quyết nợ xấu, và xây dựng cơ chế rõ ràng để xử lý những ngân hàng yếu kém và gặp khó khăn, đồng thời tiếp tục tái cơ cấu vốn ngân hàng để đáp ứng các yêu cầu theo chuẩn Basel II.

Về tài khóa, mặc dù Chính phủ vẫn còn đủ dư địa tài khóa, với tỷ lệ nợ công trên GDP rơi vào khoảng 55,3% GDP vào cuối năm 2020, nhưng kinh nghiệm quốc tế cho thấy tình hình tài khóa có thể xấu đi tương đối nhanh chóng nếu đợt bùng phát dịch hiện nay không sớm được kiểm soát hoặc các đợt dịch mới lại nổ ra trong những tháng tiếp theo. Chính phủ có thể phải mở rộng gói hỗ trợ tài khóa, vốn còn khiêm tốn đến thời điểm này, trong khi thu ngân sách có thể chịu ảnh hưởng tiêu cực do nền kinh tế phục hồi yếu hơn so với kỳ vọng. Tại thời điểm này, rủi ro tài khóa có vẻ vẫn trong tầm kiểm soát, nhưng vẫn cần tiếp tục được theo dõi sát sao, đặc biệt là vì rủi ro này liên quan đến sức khỏe tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước, dễ trở thành nợ tiềm tàng.../.

Đặng Hiếu

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực