Tình hình kinh tế vĩ mô năm 2012 tương đối ổn định

Thứ tư, 26/12/2012 21:10

Ảnh minh hoạ. (Nguồn: canthotv.vn)

(ĐCSVN) - Trong Báo cáo Cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam tháng 12/2012, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đánh giá, năm 2012 là năm thứ hai liên tiếp Việt Nam có được tình hình kinh tế vĩ mô tương đối ổn định.

Nỗ lực ổn định kinh tế vĩ mô

Báo cáo này chỉ ra rằng, đất nước bước vào năm 2011 trong một giai đoạn bất ổn kinh tế vĩ mô tăng cao. Nhưng các biện pháp bình ổn (thông qua Nghị quyết 11) được thực hiện trong năm 2011 giúp cho Việt Nam dần bình ổn nền kinh tế. Lạm phát đã giảm từ đỉnh điểm 23% hồi tháng 8/2011 xuống còn 7% trong tháng 10/2012. Tỉ giá không chính thức dao động trong biên độ ±1 % so với tỉ giá chính thức hầu như suốt cả năm. Nguồn cung USD tăng trên thị trường giúp cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng cường dự trữ ngoại hối, hiện nay đã lên đến hơn hai tháng nhập khẩu. Trái phiếu chính phủ Việt Nam đầu tháng 11 được giao dịch với mức phí bù rủi ro chưa đến 300 điểm cơ bản so với kỷ lục 600 điểm vào cuối năm 2011. Kể từ khi bắt đầu chu kỳ biến động bất thường vào năm 2007, đây là lần đầu tiên Việt Nam đạt được và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô trong một thời gian dài trên 18 tháng – một trong số ít thành tích đạt được trong những năm gần đây.

Theo Báo cáo này, tình hình được cải thiện là nhờ các chính sách thắt chặt trong nước và môi trường quốc tế khá thuận lợi. Tiền đồng giảm giá, giảm chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, duy trì lãi suất thực dương và cắt giảm một số dự án đầu tư công lãng phí là những ví dụ minh chứng cho quyết tâm của Chính phủ trong việc đối phó với những bất ổn kinh tế vĩ mô. Một điều không kém phần quan trọng là Chính phủ không ngừng ổn định kinh tế vĩ mô, coi đây là một trong những mục tiêu kinh tế quan trọng hàng đầu. Hành động và những tuyên bố của Chính phủ giúp làm an lòng những nhà đầu tư và khôi phục lòng tin đối với tiền đồng, được minh chứng bằng kết quả tiền gửi tăng mạnh và tỉ trọng tiền gửi bằng tiền đồng gia tăng trong hệ thống ngân hàng. Những thay đổi trong nền kinh tế Việt Nam được củng cố thêm bằng niềm tin được cải thiện trên thị trường tài chính toàn cầu và phí bù rủi ro giảm xuống, biểu hiện bằng chênh lệch lãi suất trái phiếu chính phủ xuống thấp kỷ lục và luồng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam tăng lên. Nhìn vào cách điều hành chính sách trước đó, thì sự quyết tâm của các cơ quan chức năng trong việc duy trì các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp sang năm thứ hai liên tiếp (2011-2012) là một sự thay đổi tích cực, và chắc chắn sẽ giúp Việt Nam dần dần gây dựng lại được niềm tin như một quốc gia điều hành kinh tế vĩ mô có kinh nghiệm.

Những tồn tại và nguyên nhân chủ yếu

Tuy nhiên, kinh tế vĩ mô của Việt Nam vẫn còn rất khó khăn và đối mặt với nhiều rủi ro. Thứ nhất, lạm phát cơ bản (được tính sau khi đã loại trừ một số mặt hàng hay biến động giá ra khỏi giỏ hàng hóa CPI như lương thực và nhiên liệu) vẫn ở mức cao, là 11%. Thứ hai, mặc dù mức dự trữ ngoại hối trong những năm gần đây đã cải thiện, song vẫn còn ở mức rất thấp so với chuẩn quốc tế và đặc biệt đối với một nước như Việt Nam với tỉ lệ thương mại so với GDP và mức cung tiền M2 so với dự trữ ngoại hối thuộc diện cao nhất ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương. Thứ ba, Việt Nam vẫn còn rất nhạy cảm với việc nới lỏng chính sách quá sớm, điều này có thể làm cho lạm phát quay trở lại. Thứ tư, chất lượng tài sản ở các tổ chức tín dụng đang xấu đi và mức nợ công hiện tại của Việt Nam tăng mạnh nếu như một số nghĩa vụ nợ tiềm ẩn trong khu vực ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước trở thành nợ thực tế. Cuối cùng, những trì hoãn và khiếm khuyết trong việc thực hiện chương trình tái cấu trúc trong cả ba lĩnh vực là ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước và đầu tư công đang bắt đầu ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư và có thể tiếp tục ảnh hưởng đến các điều kiện kinh tế vĩ mô.

Điểm đáng chú ý, trong năm 2012, kinh tế Việt Nam dự báo sẽ tăng trưởng ở mức thấp kỷ lục kể từ năm 1999. Sự phục hồi yếu của kinh tế toàn cầu đi đôi với chính sách bình ổn trong nước và tiến độ cải cách cơ cấu chậm hơn mong đợi đã dẫn đến tình trạng sản xuất, kinh doanh đình đốn trong năm 2012. Quý I năm 2012 bị ảnh hưởng nặng nề, khi GDP chỉ tăng trưởng 4% so với cùng kỳ năm 2011. Kết quả được dần dần cải thiện, một phần phản ánh những nỗ lực của Chính phủ trong việc hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh và một phần do tính thời vụ của các số liệu GDP của Việt Nam. Vào tháng 5/2012, Chính phủ thông qua Nghị quyết 13, bao gồm một loạt biện pháp từ giãn, hoãn thuế đến bổ sung vốn để thúc đẩy nền kinh tế đang đình đốn. Bổ sung cho các biện pháp này là việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã mạnh tay cắt giảm lãi suất chính sách, lên đến 500 điểm cơ bản trong sáu tháng đầu năm 2012. Nền kinh tế có chuyển biến với những sáng kiến này, tăng trưởng đạt 4,7% vào quý II và 5,4% vào quý III, tăng tốc độ tăng trưởng chung lên 4,73 trong 3 quý đầu năm. Với kết quả hoạt động quý IV dự kiến khả quan, Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng 5,2% cho cả năm 2012.

Báo cáo này cũng phân tích, sự sụt giảm trong khu vực sản xuất công nghiệp là một mối quan ngại lớn. Câu chuyện thành công của Việt Nam là nhờ vào ngành sản xuất công nghiệp tăng trưởng nhanh và cạnh tranh, với lực lượng lao động hơn 7 triệu người, chiếm khoảng 1/7 lực lượng lao động của cả nước. Mặc dù ngành này lâm vào khó khăn trong những năm gần đây do các yếu tố mang tính chu kỳ như cầu thế giới thấp và lãi suất thực cao, song điều đáng lo ngại hơn là kết quả hoạt động của ngành bị tác động bởi những yếu kém mang tính cơ cấu trong nền kinh tế như cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu lao động có tay nghề... Nhìn chung, xu hướng tăng trưởng của khu vực sản xuất công nghiệp không những đi theo chiều hướng đi xuống, mà còn giảm nhanh hơn so với các khu vực khác của nền kinh tế. Cũng giống như hầu hết các nước khác, số liệu kinh tế vĩ mô của Việt Nam chịu ảnh hưởng của tính thời vụ. Chẳng hạn, Tết Nguyên đán rơi vào quý I, cũng là thời gian mà hầu hết các doanh nghiệp và cơ quan nhà nước đều không hoạt động nhiều, do vậy làm cho sản lượng của quý này sụt giảm mạnh. Tương tự, quý IV thường là thời gian bận nhất trong năm, khi các doanh nghiệp đều gấp rút chuẩn bị sản xuất hàng phục vụ Giáng sinh và Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán, do vậy sản lượng tăng mạnh. Trên thực tế, nếu nhìn vào tốc độ tăng trưởng theo quý của 10 năm vừa qua, rất dễ nhận thấy xu hướng thời vụ, như mức tăng trưởng của quý I thấp hơn quý II, quý II thấp hơn quý III và quý III thấp hơn quý IV.

Nguyên nhân chính dẫn đến tăng trưởng suy giảm trong thời gian gần đây là do đầu tư công và đầu tư tư nhân đều trì trệ. Với tình trạng tăng trưởng tín dụng chậm và những nỗ lực tái cơ cấu đầu tư công, tổng mức đầu tư toàn xã hội đã giảm mạnh, từ 41,9% GDP năm 2010 xuống còn 34,6% năm 2011 và ước tính vào khoảng 35% trong 9 tháng đầu năm 2012. Hiện tượng suy giảm này phổ biến đối với cả đầu tư từ ngân sách, của doanh nghiệp nhà nước và khu vực tư nhân. Và trong khu vực tư nhân, trong khi các doanh nghiệp tư nhân trong nước cắt giảm kế hoạch đầu tư của mình thì mức giải ngân của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài không giảm nhiều về giá trị tuyệt đối. Trong 10 tháng đầu năm 2012, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã giải ngân 9 tỉ USD, gần bằng con số giải ngân đầu tư cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, mức cam kết của các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục giảm trong những năm gần đây. Mặc dù nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã trở nên tập trung hơn, chủ yếu từ một số nước như Nhật Bản. Từ đầu năm đến nay, các nhà đầu tư nước ngoài đã cam kết 10,5 tỉ USD, bằng 2/3 so với tổng số cam kết năm 2011.

Chủ động ổn định kinh tế vĩ mô

Từ khó khăn, tồn tại trong năm 2012, Việt Nam đã đề ra những giải pháp chủ yếu để ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2013. Theo báo cáo mới nhất của Chính phủ, năm 2013 Việt Nam sẽ tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát. Theo đó, đầu tiên là tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp để tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát ở mức thấp hơn năm 2012. Điều hành chính sách tiền tệ, tài khóa chặt chẽ, linh hoạt; gắn kết chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ theo mục tiêu tăng cường ổn định vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng hợp lý. Tiếp tục hạ lãi suất tín dụng phù hợp với mức giảm lạm phát; điều hành tỷ giá theo tín hiệu thị trường, bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam; hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường vàng; cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại hối. Quản lý chặt chẽ nợ công và nợ quốc gia trong giới hạn an toàn, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.

Cơ bản hoàn thành việc cơ cấu lại các tổ chức tài chính, tín dụng yếu kém. Kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tài chính, ngân hàng. Hỗ trợ phát triển lành mạnh thị trường chứng khoán. Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ các mặt hàng nhập khẩu không khuyến khích. Tăng cường các biện pháp thu hút và thúc đẩy giải ngân các nguồn vốn nước ngoài ODA, FDI; kiểm soát có hiệu quả đầu tư gián tiếp của nước ngoài (FII).

Bảo đảm cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu. Thực hiện nhất quán chủ trương quản lý giá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đối với điện, than, xăng dầu, dịch vụ công theo lộ trình phù hợp với yêu cầu kiểm soát lạm phát. Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, chống đầu cơ buôn lậu. Chủ động cung cấp thông tin chính xác, kịp thời về tình hình kinh tế vĩ mô để hạn chế việc tăng giá do tâm lý.

Nhanh chóng tháo gỡ khó khăn thúc đẩy phát triển sản suất kinh doanh. Đẩy mạnh hơn nữa việc hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn tín dụng với lãi suất hợp lý. Ưu tiên tín dụng cho sản xuất nông nghiệp, hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tháo gỡ vướng mắc về thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Nghiên cứu giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Phát triển thị trường trong nước, đẩy mạnh cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". Ngăn chặn có hiệu quả việc gian lận thương mại, nhập khẩu hàng hóa kém chất lượng.

Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp có giá trị gia tăng cao. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để bảo đảm tiến độ của các công trình công nghiệp quy mô lớn. Thực hiện các biện pháp đồng bộ để thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao. Hỗ trợ các nhà thầu trong nước nâng cao năng lực để tham gia nhiều hơn vào các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng. Hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, cung cấp linh kiện, phụ kiện và sử dụng nhiều lao động.

Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; cải thiện năng lực cạnh tranh và môi trường kinh doanh. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là nguồn lực từ đất đai. Ban hành chính sách về phí sử dụng kết cấu hạ tầng hợp lý để đẩy mạnh huy động vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước.

Thực hiện có hiệu quả kế hoạch đầu tư trung hạn 2013 - 2015. Tập trung vốn ngân sách cho các dự án, công trình trọng điểm, quan trọng quốc gia. Dành một phần vốn ngân sách thỏa đáng để tham gia các dự án hợp tác công - tư (PPP), vốn đối ứng ODA, kinh phí giải phóng mặt bằng. Phát hành trái phiếu công trình và áp dụng các hình thức đầu tư phù hợp để tập trung nâng cấp mở rộng Quốc lộ 1A. Xem xét phát hành trái phiếu Chính phủ trong tổng mức 2011 - 2015 Quốc hội đã cho phép để hoàn thành các công trình hạ tầng quan trọng khác.

Tập trung chỉ đạo tái cơ cấu sản xuất, ưu tiên phát triển những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, áp dụng công nghệ cao, công nghệ sạch, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi trường…

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực