leftcenterrightdel
 

Theo tài liệu mỹ thuật, từ thời Lý (1009-1225) dân ta đã có nghề khắc ván in kinh phật. Năm 1396, Hồ Quý Ly cho phát hành đồng tiền giấy Thông bảo hội sao, dùng các ván gỗ in chữ và các hình trang trí. Giữa thế kỷ XV thời Lê sơ, thám hoa Lương Nhữ Hộc người Hải Dương truyền dậy nghề khắc in trên ván cho người dân hai làng Hồng Lục – Liễu Tràng (tỉnh Hải Dương).

Bước sang thế kỷ XVI, XVII, XVIII nghệ thuật dân gian phát triển mạnh, ra đời hàng loạt các dòng tranh khắc gỗ dân gian như: Tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng...Vào thế kỷ XIX xuất hiện dòng tranh Làng Sình ở Huế. Dòng tranh khắc in Đồ Thế ở Huế ra đời muộn hơn khoảng cuối thế kỷ XIX cùng với những dòng tranh sử dụng chất liệu và cách làm khác nhau ở Nam Bộ như: Tranh kính, tranh gói vải, tranh vải.

Trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, dòng tranh thờ của một số dân tộc Dao, Tày, Nùng, Cao Lan, Giáy, Sán Dìu...sinh sống ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, xuất hiện vào khoảng thời Lê Trịnh (Thế kỷ XVII, XVIII), được vẽ chủ yếu bằng tay đan xen kỹ thuật in khắc. Thời kỳ này Tranh khắc in Thập vật trong các chùa Việt cũng có nội dung rất hấp dẫn.

Nội dung tranh dân gian Việt Nam phong phú, diễn đạt cuộc sống, tâm hồn người Việt, từ cảnh sinh hoạt đời thường, lao động, sản xuất (cảnh gieo mạ, cấy lúa ngoài đồng, mục đồng chăn trâu thổi sáo) đến đời sống tâm linh (Quan âm thuyết pháp, Ngựa Hồng), giáo dục nhân cách (Thập điện diêm vương) và lịch sử (Trưng vương khởi nghĩa, Triệu Ấu xuất quân)… Tranh Tết thể hiện mong ước con cháu học hành giỏi giang, đỗ đạt, gia đình hạnh phúc, làm ăn phát đạt, quốc gia thịnh trị, bày tỏ công ơn với tổ tiên, các bậc tiền nhân.

Bằng ngôn ngữ của nghệ thuật, tranh dân gian cụ thể những quan niệm nhân sinh quan, thế giới quan của người dân Việt Nam, tạo lên nét độc đáo trong kho tàng văn hóa Việt Nam.

Những giá trị nghệ thuật và triết lý trong tranh dân gian Việt Nam

Quá trình hình thành, phát triển mỗi dòng tranh dân gian Việt Nam, đời sống tự nhiên và tư tưởng triết học luôn là mạch nguồn định hình tư duy sáng tạo của những nghệ nhân dân gian trong quá trình lao động, sáng tạo.

Trong số các dòng tranh dân gian Việt Nam, tranh dân gian Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh là một dòng tranh nổi bật, ra đời khoảng thế kỷ 16-17, phát triển mạnh đến nửa đầu thế kỷ 20. Phương pháp tạo hình nổi bật của tranh dân gian Đông Hồ đó là kỹ thuật khắc âm bản trên ván gỗ thị, sau đó in trên giấy điệp. 

Giấy vẽ làm từ vỏ con điệp trộn với hồ, tạo nên loại giấy trắng sáng, lấp lánh khi để ngoài ánh sáng. Màu vẽ làm từ vật liệu tự nhiên với 4 màu cơ bản là xanh (lấy từ lá chàm hoặc gỉ đồng), đen (han lá che) vàng (lấy từ hoa hòe) và màu đỏ (từ gỗ vang, sỏi son). Tranh Đông Hồ có 7 loại chính, gồm tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật và tranh phản ánh sinh hoạt.

leftcenterrightdel
 

Bức tranh “Đàn lợn” một điểm nhấn ở thể loại chúc tụng, mô tả những chú lợn to béo ủn ỉn cùng vòng xoáy âm dương - thể hiện mong ước về ngày xuân tràn đầy sức sống, vui tươi, cuộc sống sinh sôi nảy nở. Giá trị tiểu biểu bức tranh khái quát với tổng thể hình chữ nhật quy tụ vòng xoáy, thể hiện triết lý âm dương của học thuyết Ngũ hành. Hình vuông và hình tròn hoà nhau như đất trời hòa quyện, tình thương mẫu tử quyện hòa thành một thể thống nhất, bền chặt. Màu sắc trên bức tranh này sử dụng kỹ thuật tương phản màu với các cặp màu xanh lục (mộc) đặt cạnh màu đỏ (hỏa) vàng (thổ) đặt cạnh xanh lục (mộc)…những yếu tố đối lập màu sắc, tạo sự tươi sáng, rực rỡ cho bức tranh “Đàn lợn”.

Bức tranh “Chọi trâu” lại phản ánh rõ nét nếp sống, sinh hoạt cộng đồng, tác giả thể hiện sự ước lệ không gian, cường điệu hình tượng thông qua hình ảnh chú trâu chọi dũng mãnh, với bố cục đối xứng, màu đen làm chủ đạo, phối hợp màu lục tạo đồng cảm người xem. Bàn về tính triết lý trong bức tranh “Chọi trâu”, các nhà nghiên cứu Mỹ thuật cho rằng, nghệ nhân dân gian đã nhấn mạnh vòng xoáy trên thân của hai con trâu: Chín vòng xoắn chính là độ số của hình kinh trên Hà Đồ (Độ số 4 và 9). Như vậy, ngoài thể hiện vẻ đẹp hình thức, người nghệ nhân dân gian còn chú ý đến tính triết lý trong Hà Đồ.

Một tác phẩm dân gian tiêu biểu khác là “Thầy đồ cóc”, trong tranh có đủ các loại cóc nhái to nhỏ lớn bé khác nhau, chú cóc lớn - hình tượng ông thầy đồ ngồi chễm chệ trên bàn và kiểm tra bài học trò của mình, còn các chú cóc, nhái xung quanh thay nhau làm những công việc nhà. Những công việc đó phảng phất lên tình cảm, cái nhìn châm biếm “con cóc là cậu ông trời”, có tính phê phán của ông cha ta về lối giáo dục đã tồn tại hằng ngàn năm, một đặc trưng giáo dục thời phong kiến ở Việt Nam.

leftcenterrightdel
 Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, làng Đông Hồ chế tác tranh dân gian truyền thống.

Hay trong bức tranh “Lễ trí” hình tượng chú bé ôm rùa một linh vật, ý nghĩa biểu trưng về tính văn hiến của dân tộc. Một số bức tiêu biểu khác như tranh thờ Ngũ hổ, Đàn lợn, đàn cá, Trê và cóc, Tam dương khai thái, Đại cát, lễ trí nhân nghĩa, vinh hoa, phú quý, tứ quý, chăn trâu, nhất tượng phước lộc điền,…mỗi bức phản ánh những giá trị về tư tưởng và tính nhân văn của người Việt. 

Không nằm ngoài quy luật phát triển, dòng tranh dân gian Hàng Trống, Hà Nội phản ảnh đậm nét tư duy sáng tạo của cộng đồng, các tầng lớp xã hội Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII.

Nổi tiếng là dòng tranh nghệ thuật chốn kinh kỳ, tranh Hàng Trống được các nghệ nhân vẽ bằng tay, không dùng bản khắc như tranh Đông Hồ, hành nghề có tính phường thợ, cha truyền con nối. Nội dung tranh phản ánh về các đề tài Phật giáo, Đạo giáo, tranh thờ như: Tam toà Thánh Mẫu, tranh Tứ phủ, ông Hoàng Ba, ông Hoàng Bảy, Ngũ hổ, Độc hổ, Sơn trang... các tranh chơi như các bộ Tứ Bình hoặc Nhị bình, Lý ngư vọng nguyệt, Thất đồng, Tố nữ, Kiều, bộ tranh về cảnh dạy học, cảnh nhà nông hay các kiểu khác: canh, tiều, ngư, mục.

leftcenterrightdel
Nghệ nhân Lê Đình Nghiên vẽ tranh dân gian Hàng Trống.

Tranh Hàng Trống vẽ rất kỳ công, đường nét vẽ tinh xảo, gợi cảm, xen những mảng trống tạo không gian. Mầu sắc được vẽ bằng phẩm mầu có hoà sắc phong phú, thường là lam - hồng, có thêm lục - đỏ, da cam - vàng. Mầu phẩm tô bằng tay sau khi đã in các nét đen, pha ít hay nhiều nước mà có màu đậm nhạt.

Tính triết lý trong tranh Hàng Trống thể hiện qua cách xây dựng hình tượng nhân vật, ý tưởng bố cục và kí hiệu trên tranh. Nổi bật như bức tranh “Lưỡng nghi sinh tứ tượng” minh triết về sự khởi nguyên của vũ trụ, khác hẳn với cách lý giải của các nhà lý học Đông phương từ thời Hán đến nay.

Theo các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian, thời kỳ năm 1750 đến năm 1960, nhiều đồng bào dân tộc Dao, Cao Lan, Sán Chay, Tày, Nùng, Sán Dìu ở các vùng Hòa Bình, Vĩnh Phúc, Yên Bái, Lào Cai,...về Hà Nội đặt những người thợ Hàng Trống vẽ tranh thờ. Những bức tranh này được đồng bào sử dụng trong các nghi lễ cổ truyền như lễ tang, lễ cấp sắc, lễ thủy lục đạo tràng, lễ cầu mùa, lễ Tam Nguyên…Hiện một số tranh như “Tứ Phủ Công Đồng”, “Ngọc Hoàng Thượng Đế” được vẽ ở thời kỳ này còn được các nhà sưu tầm lưu giữ đến nay. 

Bên cạnh những giá trị triết lý trong nội dung tranh dân gian, một đặc trưng nổi bật thể hiện tư duy cảm thụ của người Việt, phản ánh qua các thời kỳ phát triển của nền Mỹ thuật Việt Nam, đó là nghệ thuật trang trí phục vụ đời sống dân sinh của dòng tranh dân gian.

leftcenterrightdel
 

Trong số các dòng tranh tiêu biểu, tranh Kiếng Nam Bộ là sản phẩm thủ công in đậm tính mỹ thuật, thẩm thấu đời sống, văn hóa người dân Nam Bộ. Tranh Kiếng Nam Bộ đã xuất hiện trong cung đình Huế từ thời Nguyễn (triều Minh Mạng, Thiệu Trị). Những năm 1920 nghề làm tranh Kiếng từng rất được ưu chuộng tại khu vực miền Trung, sau đó cùng với các ngành nghề thủ công mỹ nghệ khác, tranh Kiếng đã có những bước phát triển vượt bậc.

Khoảng năm 1940-1950 dòng tranh này có mặt tại khắp lục tỉnh Nam kỳ và nhiều vùng miền cả nước. Trong hơn một thế kỷ phát triển loại hình nghệ thuật này đã hình thành nhiều dòng tranh nổi tiếng với phong cách và đặc điểm riêng biệt, tiêu biểu là các dòng tranh Kiếng Khơ Me - Nam bộ (tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng), dòng tranh Lái Thiêu (Thủ Dầu Một - Bình Dương), dòng tranh Chợ Lớn (Sài Gòn).

Tranh Kiếng Nam Bộ trở thành một sản phẩm không thể thiếu trong không gian sống của người dân Nam bộ, việc treo tranh Kiếng trong nhà đã hình thành nét văn hóa tao nhã của người dân nơi đây.

Tranh Kiếng có nhiều chủng loại đa dạng: Tranh thờ tổ tiên, tranh Thần, Phật, tranh chúc tụng, tranh cảnh vật trang trí nội thất.... Ở đó có loại vẽ thuần bằng sơn màu đa sắc (thêm ngân nhũ và kim nhũ) hoặc kết hợp với kỹ thuật tráng thủy, độc đáo nhất là tranh Kiếng gắn ốc xà cừ.

Tranh Kiếng đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và mỹ thuật của công chúng khắp các thôn xã từ miền Đông Nam bộ đến miền Tây Nam bộ và trở thành loại hình nghệ thuật dân gian phát triển cùng một giai đoạn lịch sử của đất nước.

leftcenterrightdel

Một bức tranh kính Nam Bộ.

leftcenterrightdel
 Một bức tranh kiếng Nam Bộ vui tươi, mang đậm dấu ấn văn hóa của người dân Nam Bộ, những năm 1940.

Nhắc về tranh dân gian Việt Nam, nhiều người thường biết tới dòng tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống nhưng ít ai biết rằng, nền Mỹ thuật nước ta đã từng có dòng tranh Thập vật mang tính “bác học”, được chế tác từ các làng, chùa ở vùng châu thổ Bắc bộ, nội dung tranh thể hiện đời sống tín ngưỡng của người Việt trong chế độ phong kiến.

Theo các tư liệu Bảo tàng Mỹ thuật, tranh Thập vật rất thịnh vào giai đoạn từ thời Lê - Trịnh qua Nguyễn đến thời Pháp thuộc, suy thoái vào khoảng thập niên 60 của thế kỷ XX. Vào đầu thế kỷ XXI, đất nước bước vào thời kỳ hội nhập, đời sống văn hóa phát triển, những người làm công tác văn hóa, các họa sỹ, nhà nghiên cứu có điều kiện nhìn nhận, đánh thức dòng tranh dân gian này, giúp công chúng cảm nhận vẻ đẹp văn hóa, những thông điệp về đạo đức, luân lý và tín ngưỡng của các bậc tiền nhân.

Hòa quyện với các dòng tranh dân gian khác tranh Thập vật góp phần cho bức tranh văn hóa Việt Nam thêm đa dạng và lung linh sắc màu.

leftcenterrightdel
 Sưu tập mộc bản tranh Thập vật giới thiệu tại Bảo tàng Hà Nội.

Bảo tồn, phát huy những giá trị dân gian trong thời kỳ mới

Tranh dân gian Việt Nam có giá trị lịch sử, văn hoá cao, điều đó đã được các nhà khoa học, giới mỹ thuật khẳng định. Tuy nhiên, nhiều gia đình Việt hiện nay không treo tranh dân gian, dòng tranh này đang bị tranh hiện đại lấn át. Nguyên nhân do thị hiếu người dân thay đổi, “đầu ra” cho tranh gặp nhiều khó khăn. Người làm tranh ở một số làng nghề thường phải kết hợp làm hàng mã hay các xu hướng thương mại khác.

Ngày nay, nghệ thuật vẽ tranh Kiếng dân gian Nam Bộ không còn được ưa chuộng và phát triển như xưa, vì vậy cần có các phương án bảo tồn, phát huy các giá trị nghệ thuật truyền thống này để lưu giữ một vốn quý trong kho tàng văn hóa Việt Nam.

Ở làng Tranh Đông Hồ có khoảng 20 người đang thực hành di sản, các nghệ nhân có khả năng truyền dạy tinh hoa không còn nhiều. Dù chính quyền địa phương đã có sự quan tâm hỗ trợ tích cực, thể hiện bằng các chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị di sản ở địa phương, giúp các nghệ nhân đảm bảo cuộc sống, chuyên tâm gắn bó với nghề cổ truyền.

Tuy nhiên những người gìn giữ, phát huy tranh dân gian vẫn tập trung ở số ít người, chưa thu hút được nhiều người dân tham gia làm nghề. Thực trạng này cho thấy nếu không tìm ra phương thức để thích ứng với thị trường, với cuộc sống, tình trạng trên vẫn còn kéo dài.

Có những nghịch lý ở làng tranh Đông Hồ, dù không còn nhiều người làm tranh. Nhưng các gia đình đang làm tranh đều sống dễ dàng. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế có xưởng tranh quy mô lớn, du khách tới đây có thể vừa xem các quy trình sản xuất hay mua sản phẩm làm quà lưu niệm. Các con trai của nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam vẫn kế nghiệp, tiếp tục làm tranh đưa ra thị trường.

Khác với tranh Đông Hồ, hiện tranh Hàng Trống khởi sắc hơn. Gia đình nghệ nhân Lê Đình Nghiên - số ít người đang gìn giữ nghề làm tranh Hàng Trống ở Hà Nội luôn tất bật làm tranh. Dù tranh giá tiền triệu, nhưng vẽ xong bức nào khách mua ngay bức đó. Nhu cầu người sử dụng tranh Hàng Trống khá cao, bởi vậy dù không có người truyền dậy, nhưng vẫn có người nghiên cứu mày mò vẽ theo phong cách tranh Hàng Trống.

Theo Phó Giáo sư Phan Ngọc Khuê, tranh Hàng Trống chủ yếu vẽ để phục vụ nhu cầu người dân sinh sống ở đô thị, nên các nghệ nhân thường làm tranh khổ lớn, điều đó giúp tranh Hàng Trống phù hợp với không gian những phòng khách sang trọng. Tính độc bản tranh Hàng Trống cao, không phải dòng tranh in hàng loạt. Do vậy, người mua tranh Hàng Trống không chỉ để chơi, mà còn để sưu tầm, dòng tranh này càng để lâu năm, giá trị càng cao.

Nguyên nhân sự khởi sắc tranh Hàng Trống là khả năng đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của người dân. Hiện nay, tranh được sử dụng nhiều trong các hoạt động mỹ thuật, nhất là lĩnh vực đồ hoạ, dễ thích ứng với yêu cầu trang trí nội, ngoại thất trong cuộc sống hiện đại.

Qua đó thấy, để tranh dân gian tồn tại và phát triển cần có thị trường tiêu thụ. Mỗi dòng tranh tương ứng với mỗi đặc điểm và số phận khác nhau. Những số phận ấy gợi ý để có những phương thức bảo tồn, phát triển phù hợp với mỗi dòng tranh dân gian trong đời sống đương đại.

Nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Thanh Mai đã đề xuất cần đưa nghệ thuật truyền thống, trong đó có tranh dân gian vào trường học để giúp các em tìm hiểu, nhận biết được cái đẹp, từ đó yêu thích, có trách nhiệm với giá trị văn hóa truyền thống và trong tương lai sẽ trở thành những lớp khách hàng tiềm năng của dòng tranh này.

leftcenterrightdel
Trưng bày tranh dân gian truyền thống tại Khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội.

 Giám đốc Bảo tàng Gốm sứ tư nhân Hà Nội, Nguyễn Thị Thu Hòa đã sưu tầm 800 bức tranh dân gian các loại trên cả nước. Nhà sưu tầm đã phối hợp thực hiện 2 triển lãm tranh dân gian tại Hà Nội, xuất bản sách về hai dòng tranh dân gian Kim Hoàng và Hàng Trống; triển khai dự án phục chế các dòng tranh dân gian truyền thống, trong đó có dòng tranh Kim Hoàng của Hà Nội.

Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, nghề làm tranh dân gian Đông Hồ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (đợt 1, tháng 12/2012), thuộc loại hình Nghề thủ công truyền thống.

Vừa qua, Thủ tướng đã đồng ý gửi hồ sơ quốc gia đề nghị UNESCO xem xét đưa nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.

Các giải pháp bảo tồn và phát triển tranh dân gian đang góp phần thiết thực vào phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam. Thiết nghĩ ngoài sự vào cuộc của Nhà nước, các đơn vị chức năng; các địa phương làng nghề, sự tâm huyết của các nghệ nhân thì việc huy động các hoạt động xã hội hóa là việc làm thiết thực để phát triển tranh dân gian một cách hiệu quả và bền vững.

 

Thế Dương
08/08/2021 12:24