|
(Ảnh minh họa: vtc.vn ) |
Dự thảo Nghị định này bao gồm 5 chương với 32 điều. Trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị định còn có ý kiến khác nhau, Bộ Nội vụ xin ý kiến Chính phủ về hai nội dung.
Cụ thể, về việc áp dụng một số quy định xử lý kỷ luật đối với cán bộ, tại Khoản 1 Điều 78 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định đối với cán bộ có 04 hình thức kỷ luật là khiển trách, cảnh cáo, cách chức, bãi nhiệm; đồng thời, Khoản 4 Điều 78 quy định “Việc áp dụng các hình thức kỷ luật, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật cán bộ được thực hiện theo quy định của pháp luật, điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội và văn bản của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền”.
Tuy nhiên, hiện nay trong các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức bộ máy (như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các văn bản khác có liên quan) chỉ quy định về bãi nhiệm mà không có quy định về hành vi vi phạm, trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật đối với các trường hợp xử lý bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo, cách chức, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ cấp xã. Điều này tạo khoảng trống pháp lý, gây khó khăn trong công tác xử lý kỷ luật cán bộ, chưa bảo đảm nguyên tắc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm và nguyên tắc xử lý kỷ luật Đảng không thay thế xử lý kỷ luật hành chính. Vấn đề này, Bộ Nội vụ thống nhất việc bổ sung quy định xử lý cán bộ trong Nghị định để giải quyết những vướng mắc từ thực tiễn thực hiện; đồng thời, cũng nhằm mục đích thực hiện đúng chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Nội vụ cho biết, về cách thức quy định, còn 2 loại ý kiến. Trong đó, loại ý kiến thứ nhất, đề nghị chỉ quy định việc áp dụng các quy định của Nghị định này để xử lý kỷ luật đối với một số trường hợp cán bộ có hành vi vi phạm mà pháp luật và điều lệ chưa quy định, không bổ sung quy định về hành vi vi phạm, hình thức xử lý kỷ luật, trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật riêng đối với đối tượng là cán bộ. Vì, hiện nay, các quy định chỉ vướng đối với đội ngũ cán bộ hoạt động chuyên trách, giữ chức vụ, chức danh bầu cử tại các cơ quan nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp). Đối với cán bộ công tác tại các cơ quan của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thì không gặp khó khăn, vướng mắc. Vì vậy, nếu bổ sung quy định riêng đối với đối tượng là cán bộ đang công tác tại các cơ quan dân cử thì về kỷ luật đối với đội ngũ cán bộ sẽ phân hóa thành hai cơ chế riêng. Pháp luật về tổ chức bộ máy hiện hành cũng đã có quy định riêng đối với hình thức bãi nhiệm đối với các chức danh do bầu cử, nếu quy định ở Nghị định này sẽ khó bảo đảm nhất quán. Bên cạnh đó, người giữ các chức danh do bầu cử hoạt động chuyên trách đều là đảng viên, do đó thông thường sẽ thực hiện quy định kỷ luật đảng trước, chính quyền sau. Khi đó, đã có hình thức xử lý kỷ luật đảng, kết luận của cơ quan có thẩm quyền và việc xử lý kỷ luật hành chính cần đơn giản về trình tự, thủ tục. Vì vậy, ý kiến này cho rằng chỉ quy định việc áp dụng như quy định tại Điều 1, Khoản 9 Điều 2, Khoản 5 Điều 20 và điểm b Khoản 2 Điều 23 là đủ căn cứ để xử lý, giải quyết được khó khăn từ thực tiễn.
Còn loại ý kiến thứ hai đề nghị quy định cụ thể các nội dung về xử lý kỷ luật (bao gồm hành vi vi phạm, trình tự, thủ tục áp dụng, thẩm quyền áp dụng) đối với tất cả cán bộ có hành vi vi phạm (bao gồm cả cán bộ công tác trong hệ thống đảng, đoàn thể, chính quyền) để bảo đảm thống nhất.
Dự thảo Nghị định được Bộ Nội vụ xây dựng và trình Chính phủ thể hiện theo phương án 1.
Vấn đề khác có ý kiến khác nhau là về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu có hành vi vi phạm trong thời gian công tác.
Dự thảo Nghị định đã bổ sung quy định áp dụng xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu có hành vi vi phạm trong thời gian công tác; bổ sung nguyên tắc xử lý kỷ luật hành chính đối với hành vi vi phạm trong thời gian công tác của người đã nghỉ việc, nghỉ hưu được thực hiện sau khi có quyết định xử lý kỷ luật về đảng; quy định đối với trường hợp này được sử dụng kết luận về hành vi vi phạm mà không phải điều tra, xác minh lại; đồng thời, bổ sung quy định về thẩm quyền.
Bộ Nội vụ nhận thấy, quy định như dự thảo là bảo đảm tính khả thi, phù hợp với thực tiễn và bảo đảm thực hiện đúng quy định được giao. Thực tế cho thấy, để bảo đảm nguyên tắc công tác cán bộ là công tác của Đảng thì hầu hết các vị trí lãnh đạo trong hệ thống đảng, đoàn thể, chính quyền các cấp hiện này đều là đảng viên (một số ít chưa là đảng viên giữ vị trí lãnh đạo trong các đơn vị sự nghiệp công lập). Những sai phạm nghiêm trọng hầu hết đều ở những người đã từng giữ vị trí lãnh đạo và vì vậy, việc giới hạn kỷ luật hành chính sau khi kỷ luật đảng đối với đối tượng này là cần thiết, bảo đảm tính răn đe và phù hợp với quy định của Đảng. Hơn nữa, quy định như dự thảo sẽ tránh phức tạp về trình tự, thủ tục, thẩm quyền do đã có kết luận về sai phạm, hình thức xử lý kỷ luật cũng đã được xác định rõ và do đó không phải thực hiện các quy định về thành lập Hội đồng kỷ luật, triệu tập họp… rất khó khả thi.
Ngoài ra, có ý kiến cho rằng quy định xử lý kỷ luật hành chính đối với cán bộ, công chức, viên chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu có hành vi vi phạm trong thời gian công tác thực hiện sau khi xử lý kỷ luật đảng là giới hạn đối tượng bị xử lý kỷ luật so với luật, theo đó những người là cán bộ, công chức, viên chức nhưng không phải là đảng viên nay đã nghỉ việc, nghỉ hưu có hành vi vi phạm trong thời gian công tác sẽ không xử lý kỷ luật hành chính.
Dự thảo được Bộ Nội vụ xây dựng thể hiện theo phương án 1./.