Vẫn còn nhiều khó khăn trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nông sản trên thị trường nội địa
(Ảnh: BT)
Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản, với mặt hàng gạo, tính đến năm 2016, tiêu dùng gạo bình quân đầu người cả nước đạt 8,5 kg/người/tháng. Tính riêng khu vực thành thị, mức tiêu thụ chỉ đạt 7,2 kg/người/tháng, trong khi ở nông thôn là 9,5 kg/người/tháng. Xu hướng giảm lượng tiêu dùng gạo đang diễn ra trong thời gian qua. Nếu như trong những năm thập niên 2000, lượng tiêu thụ gạo bình quân đầu người ở mức khoảng 150 kg/người/năm thì đến nay, con số này đã giảm xuống còn 136 kg/người/năm.
Về sản phẩm chăn nuôi, chủ yếu để phục vụ thị trường nội địa. Theo Cục Chăn nuôi, tiêu thụ bình quân sản phẩm thịt hơi của Việt Nam năm 2016 khoảng 54,1 kg/người/năm. Tiêu dùng các loại thịt của Việt Nam đang có xu hướng tăng lên, bình quân trong giai đoạn 2010 – 2016, tốc độ tăng tiêu dùng đạt khoảng 2%/năm. Trong đó thịt lợn vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất (trên 70%); tiêu dùng thịt gà và thịt bò mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng cũng tăng ổn định.
Đối với sản phẩm thủy sản, tổng sản lượng nuôi trồng và đánh bắt cả nước đạt khoảng 6 triệu tấn/năm. Trong đó, dùng cho chế biến xuất khẩu khoảng 2,5 triệu tấn, chế biến cho tiêu thụ trong nước khoảng 500 ngàn tấn, tiêu dùng thủy sản tươi sống khoảng 1,6 – 1,8 triệu tấn/năm, số còn lại được dùng làm thức ăn chăn nuôi và một số mục đích khác.
Mặc dù với lượng tiêu thụ sản phẩm lớn, tuy nhiên, theo đánh giá của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, việc tiêu thụ các sản phẩm nông sản trong thị trường nội địa vẫn còn gặp khá nhiều khó khăn. Các chuỗi giá trị nông sản nội địa hiện có đặc điểm chung là chuỗi dài, lực lượng trung gian thương mại quy mô nhỏ, chưa được tổ chức và quản lý tập trung, dẫn đến độ trễ về thời gian và chất lượng trao đổi thông tin giữa người sản xuất và người tiêu dùng ngày càng lớn.
Với ngành hàng gạo, theo quy định, gạo xuất khẩu được áp thuế giá trị gia tăng (VAT) 0% trong khi gạo sản xuất, tiêu dùng trong nước phải chịu mức thuế suất 5%. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, lượng gạo tiêu thụ trong thị trường nội địa bị áp thuế VAT 5% chỉ chiếm khoảng 15% lượng gạo sản xuất, phần còn lại qua kênh thương lái trôi nổi không chịu thuế. Điều này dẫn đến việc các doanh nghiệp có đầu tư với nông dân làm gạo chất lượng cao cho thị trường nội địa phải trả thuế VAT đầy đủ, rất khó cạnh tranh với thương lái và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo chất lượng kém hơn.
Về chăn nuôi, có hiện tượng mất cân đối cung - cầu, đặc biệt là mặt hàng thịt lợn vào cuối năm 2016 đến những tháng đầu năm 2017. Quản lý an toàn thực phẩm còn yếu, việc kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sản phẩm thịt trong kênh phân phối còn hạn chế, đặc biệt khó khăn trong quản lý nguồn hàng cung ứng tại chợ.
Ở mặt hàng thủy sản, ngoài những doanh nghiệp xuất khẩu lớn, hiện tại nhiều doanh nghiệp sản xuất thủy sản trong nước điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị lạc hậu, chất lượng sản phẩm còn ở mức thấp, không ổn định. Đồng thời, vấn đề an toàn thực phẩm đã được các doanh nghiệp chú trọng nhưng nhận thức của nhiều nhà sản xuất, chế biến, tiêu thụ vẫn có quan điểm chất lượng sản phẩm nội địa không cần bằng chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Việc tôm bơm agar, cá nhiễm kháng sinh cấm, mực xử lý thuốc tẩy trắng… đã làm cho niềm tin của người tiêu dùng trong nước giảm sút mạnh.
Nhằm đẩy mạnh tiêu thụ nông sản trên thị trường nội địa, theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, cần tuyên truyền, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tăng cường chế biến, tiêu thụ các sản phẩm nông sản. Đẩy mạnh quản lý thị trường, kiểm soát giá thành và giá bán các sản phẩm nông sản, giảm chi phí trung gian. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động tạm nhập – tái xuất nông sản.
Bên cạnh đó, cần khơi thông các điều kiện cơ bản để phát triển thị trường (đặc biệt là thị trường hàng hóa chế biến có giá trị gia cao) như: cơ sở hạ tầng, kho bãi, dịch vụ hậu cần, hệ thống chuỗi kho lạnh; các dịch vụ công, tín dụng, bảo hiểm, thanh toán hiện đại dọc chuỗi cung ứng. Đồng thời, tăng cường phát triển liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, liên kết người sản xuất với các chuỗi bán lẻ lớn, đảm bảo cân đối cung - cầu, có thể truy xuất nguồn gốc, kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm theo chuỗi.
Với sản phẩm lúa gạo, khuyến khích, ưu đãi doanh nghiệp phát triển và xây dựng thương hiệu, đăng ký bản quyền, đặc biệt đối với nhóm gạo đặc sản vùng miền; hỗ trợ doanh nghiệp phát triển các kênh phân phối gạo chất lượng cao cho thị trường nội địa. Xem xét giảm thuế VAT từ 5% xuống 0% cho các doanh nghiệp kinh doanh gạo trên thị trường nội địa để khuyến khích phát triển gạo có thương hiệu, chất lượng, truy xuất nguồn gốc cho thị trường nội địa. Khuyến khích chuyển đổi diện tích đất lúa không hiệu quả sang các cây trồng mang lại thu nhập cao hơn cho người nông dân.
Với sản phẩm ngành chăn nuôi, cần tiếp tục rà soát, quy hoạch lại các vùng chăn nuôi gắn với an toàn dịch bệnh, kiểm soát môi trường. Khuyến khích phát triển các mô hình chăn nuôi sạch an toàn, liên kết khép kín từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Kiểm soát chặt chẽ nguồn cung, áp dụng kinh nghiệm của các nước về phân vùng sản xuất với số lượng nhất định để hạn chế ô nhiễm và dư cung.
Với sản phẩm thủy sản, không ngừng nâng cao chất lượng, xây dựng thương hiệu hàng thủy đặc sản của các địa phương; củng cố và phát triển tốt các chợ nông thôn, hình thành các chợ đầu mối nhằm khơi thông tốt thị trường. Chú ý đẩy mạnh công tác quản lý chất lượng hàng hoá, đăng ký tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm; cải tiến mẫu mã, bao bì để đáp ứng nhu cầu của thị trường./.