|
Toàn cảnh phiên họp (Ảnh: Phạm Thắng) |
Luật Đất đai (sửa đổi) là 1 trong 4 dự án Luật được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến lần đầu tại Phiên họp chuyên đề pháp luật tháng 9/2022.
Trong phát biểu khai mạc phiên họp chuyên đề pháp luật, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã nhấn mạnh đây là dự án luật cho ý kiến lần đầu, dự kiến sẽ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến lần đầu tiên tại Kỳ họp thứ 4 tới và sẽ được xem xét, thông qua sau ba Kỳ họp. Dự án Luật Đất đai (sửa đổi) này sẽ thể chế hóa Nghị quyết 18 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao.
Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, thời gian qua, các cơ quan của Quốc hội đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tọa đàm về lĩnh vực này. Tại Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam năm 2022 vừa qua, các đại biểu, chuyên gia, nhà quản lý đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu về lĩnh vực đất đai tại phiên hội thảo chuyên đề.
Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nêu rõ, Thường trực Ủy ban Kinh tế tán thành sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật Đất đai với những lý do như đã được nêu trong Tờ trình của Chính phủ. Việc nghiên cứu, xây dựng dự án Luật Đất đai (sửa đổi) cũng là một trong những nhiệm vụ lập pháp trọng tâm đã được đề ra trong Đề án Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV và Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15 ngày 05/11/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về triển khai thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế, các nội dung của dự thảo Luật cơ bản phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên, Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát kỹ các trường hợp thu hồi đất quy định tại Điều 69 và Điều 70 dự thảo Luật, bảo đảm các nguyên tắc theo quy định tại Điều 54 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng”.
|
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh (Ảnh: Phạm Thắng) |
Thường trực Uỷ ban Kinh tế cũng nêu quan điểm về một số vấn đề xin ý kiến theo Tờ trình của Chính phủ.
Cụ thể, về các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (Điều 70), Thường trực Ủy ban Kinh tế cho rằng việc quy định các trường hợp Nhà nước thu hồi đất cần bảo đảm tuân thủ các trường hợp đã quy định tại Điều 54 Hiến pháp năm 2013. Quy định tại dự thảo Luật về việc Nhà nước thu hồi đất đối với “dự án khu đô thị, khu nhà ở thương mại” sẽ tác động rất lớn đến quyền của người sử dụng đất. Các dự án khu đô thị, nhà ở thương mại mang tính chất kinh doanh là chủ yếu, mặc dù sẽ tác động đến phát triển kinh tế - xã hội nói chung nhưng lợi ích trước mắt và trực tiếp sẽ mang lại cho các chủ đầu tư thực hiện dự án. Mặt khác, Nghị quyết số 18-NQ/TW đặt ra nhiệm vụ: “Tiếp tục thực hiện cơ chế tự thỏa thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đô thị, nhà ở thương mại”. Vì vậy, Thường trực Ủy ban Kinh tế cho rằng việc thu hồi đất phục vụ dự án khu đô thị, nhà ở thương mại là không phù hợp.
Về mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân (Điều 149), theo ông Vũ Hồng Thanh, Luật Đất đai năm 2013 quy định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân không quá 10 lần hạn mức giao đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân đối với mỗi loại đất (khoản 1 Điều 130); đối với các tổ chức thực hiện theo dự án đầu tư thì pháp luật về đất đai không giới hạn diện tích thực hiện dự án. Xuất phát từ thực tiễn tổ chức thi hành Luật Đất đai năm 2013 liên quan đến hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp nói trên, Thường trực Ủy ban Kinh tế cho rằng việc mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp xét trong dài hạn là phù hợp với yêu cầu cơ cấu lại ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, cần nghiên cứu, đánh giá cụ thể về mức độ nới rộng hạn mức, bảo đảm phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng, địa phương, với việc chuyển đổi nghề, việc làm, lao động ở nông thôn theo yêu cầu của Nghị quyết số 18-NQ/TW.
Bên cạnh đó, Thường trực Ủy ban Kinh tế cho rằng việc quy định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp tối đa trong dự thảo Luật là cần thiết, tránh tình trạng các địa phương cạnh tranh thu hút đầu tư thông qua việc nới hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp, dẫn đến khó quản lý việc sử dụng đất nông nghiệp. Đồng thời, bên cạnh việc quy định hạn mức tối đa nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp và giao Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị dự thảo Luật có cơ chế giám sát để quản lý việc nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp và bảo đảm sử dụng đất nông nghiệp đúng mục đích, tránh trường hợp lợi dụng chuyển sang mục đích khác. Căn cứ xác định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp cũng cần được bổ sung quy định xem xét dựa trên năng lực, quy mô, điều kiện, tiến độ sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân để tránh bỏ hoang, lãng phí nguồn lực đất nông nghiệp.
Về bổ sung quy định về cho phép chuyển nhượng, thế chấp “quyền thuê trong hợp đồng thuê đất trả tiền hằng năm” (Điều 201), cơ quan thẩm tra cho rằng, “quyền thuê trong hợp đồng thuê đất trả tiền hằng năm” là một khái niệm mới, cần được làm rõ và phân biệt giữa chuyển nhượng, thế chấp quyền thuê trong hợp đồng thuê đất trả tiền hằng năm với việc chuyển nhượng, thế chấp bằng quyền sử dụng đất trong trường hợp Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê mà dự thảo Luật đã quy định. Bên cạnh đó, Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị đánh giá tác động của việc cho phép thế chấp quyền thuê đất trong hợp đồng thuê đất trả tiền hằng năm đến việc thẩm định, quản lý và xử lý tài sản thế chấp của các tổ chức tín dụng.
Thường trực Uỷ ban Kinh tế cũng cho rằng, thảo Luật mới quy định về điều kiện thực hiện quyền chuyển nhượng, thế chấp quyền sử dụng đất, chưa quy định về điều kiện chuyển nhượng, thế chấp “quyền thuê trong hợp đồng thuê đất”. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, làm rõ để tạo cơ sở pháp lý rõ ràng khi triển khai quy định này.
Về cơ chế tự thỏa thuận nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đô thị, nhà ở thương mại (Điều 68), theo cơ quan thẩm tra, trong quá trình tổng kết thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW, có ý kiến cho rằng việc quy định Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn mới khó xác định có thuộc phạm vi phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng hay không, dễ bị lợi dụng, dẫn đến tình trạng khiếu nại, khiếu kiện gia tăng. Nghị quyết số 18-NQ/TW đặt ra nhiệm vụ: “Tiếp tục thực hiện cơ chế tự thỏa thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đô thị, nhà ở thương mại”; đồng thời “đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, cần sớm xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách để tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất tham gia với nhà đầu tư để thực hiện các dự án dưới hình thức chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất”. Mặt khác, do các dự án đô thị, nhà ở thương mại chủ yếu phục vụ lợi ích của nhà đầu tư, việc áp dụng cơ chế tự thỏa thuận trong trường hợp này cũng bảo đảm không mở rộng trường hợp thu hồi đất ra ngoài phạm vi phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; tôn trọng quan hệ dân sự giữa người sử dụng đất và nhà đầu tư. Do đó, việc cho phép nhà đầu tư dự án đô thị, nhà ở thương mại phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt được nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư, thay vì áp dụng cơ chế Nhà nước thu hồi đất trong trường hợp này, là phù hợp cả về cơ sở chính trị và thực tiễn.
Ngay sau khi nghe báo cáo thẩm tra, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ tiến hành thảo luận về dự án Luật Đất đai (sửa đổi)./.