Nâng tầm nhận thức, củng cố niềm tin, khơi dậy khát vọng

Thứ sáu, 11/06/2021 00:04
(ĐCSVN) – “Những tư tưởng và tình cảm lớn trong bài viết của Tổng Bí thư có tác động lan tỏa, thấm sâu, nâng tầm tư tưởng chính trị, củng cố niềm tin, khẳng định lý tưởng, con đường mà Bác Hồ, Đảng ta lựa chọn, khơi dậy tình cảm, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, cổ vũ toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc…”

Đó là khẳng định của PGS, TS Đào Duy Quát, nguyên Phó Trưởng ban thường trực Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, nguyên Tổng Biên tập Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam khi trao đổi với chúng tôi về bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" mới đây.

Phóng viên (PV): Thưa đồng chí, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đưa ra những luận điểm sắc bén, khẳng định tính đúng đắn và tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng chí có suy nghĩ gì về bài viết này?

Đồng chí Đào Duy Quát: Dưới tiêu đề “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam”, trên cơ sở tiếp thu những thành tựu lý luận và thực tiễn tổng kết 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, bài viết của Tổng Bí thư đã cắt nghĩa và lý giải rất sâu sắc, đầy sức thuyết phục bốn vấn đề rất cơ bản của Cương lĩnh và đường lối Đại hội XIII: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực hiện công cuộc đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì? Và đặt ra vấn đề gì? Ở tầm cao tư tưởng lý luận và thực tiễn, bài viết của Tổng Bí thư có ý nghĩa như một luận cương mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam trong thế kỷ XXI. 

Với ý nghĩa này, những tư tưởng và tình cảm lớn trong bài viết của Tổng Bí thư có tác động lan tỏa, thấm sâu, nâng tầm tư tưởng chính trị, củng cố niềm tin, khẳng định lý tưởng, con đường mà Bác Hồ, Đảng ta lựa chọn, khơi dậy tình cảm, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, cổ vũ toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 

Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ảnh minh họa. Ảnh: Việt Hà  

PV: Đâu là vấn đề mà đồng chí tâm đắc nhất trong bài viết?

Đồng chí Đào Duy Quát: Trong bài viết, Tổng Bí thư với tầm cao tư tưởng lý luận và thực tiễn đã luận giải với lý lẽ sắc bén và những luận chứng thuyết phục “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

Trước khi luận giải tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, bài viết đã lưu ý phương pháp tiếp cận chủ nghĩa xã hội rất toàn diện, trên cả ba phương diện: Chủ nghĩa xã hội là một học thuyết, đó là chủ nghĩa xã hội khoa học, dựa trên học thuyết Mác – Lênin trong thời đại ngày nay – Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, được mở ra sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười ở Nga.

Chủ nghĩa xã hội là một phong trào, lôi cuốn được triệu triệu quần chúng tham gia, hàng triệu triệu quần chúng đồng tình, ủng hộ, tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ, là một hệ thống tổ chức chính trị, kinh tế, văn hóa… của một xã hội. Đó là hệ thống thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa. 

Trong bài viết này, tính luận giải, tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước cuộc khủng hoảng và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, vì: “Khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không có gì phải bàn, nó mặc nhiên như đã được khẳng định”.

Bài viết tập trung luận giải tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam thời kỳ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào, thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm, thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống Cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng vui mừng, thừa cơ để xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng, cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó, họ cho rằng, ta chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Có người còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác – Lênin và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa. Từ những biểu hiện trên, bài viết của Tổng Bí thư đã tập trung phân tích, lý giải bản chất, thực trạng của chủ nghĩa tư bản hiện đại, nhất là từ năm 1991 đến nay. Tác giả đưa ra những luận chứng đầy sức thuyết phục vào những vấn đề chủ yếu sau:

Chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ. Ở các nước tư bản phát triển trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và nhất là do kết quả cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã có những điều chỉnh, hình thành không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn. Từ giữa thập kỷ 1970 và nhất là sau khi Liên Xô và Đông Âu tan rã để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã điều chỉnh thúc đẩy các chính sách tự do mới trên quy mô toàn cầu và nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Nhưng chủ nghĩa tư bản vẫn không khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Vì thế các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính, năng lượng liên tiếp xảy ra. Bài viết đã luận chứng, cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ những năm 2008 lan đến tất cả các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác, tác động đến hầu hết các nước. Và hôm nay, cuộc khủng hoảng y tế, xã hội lẫn kinh tế, chính trị đang diễn ra dưới tác động của đại dịch COVID-19 và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Kinh tế suy thoái đã được phơi bày sự thật về những bất công xã hội trong xã hội tư bản: thất nghiệp gia tăng, khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc. 

Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển” từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật cho thấy bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo, làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu. Sự thật đó càng làm phá sản những lý thuyết kinh tế hay mô hình phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại. 

Bài viết đã cắt nghĩa sâu sắc nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính, khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái… đang là những thách thức vô cùng to lớn cho sự tồn tại, phát triển của nhân loại. Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chuẩn mực của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh. Lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đây là đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. 

Bài viết tiếp tục luận chứng: các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính, năng lượng, lương thực, môi trường đang diễn ra hiện nay, một lần nữa chứng minh tính không bền vững của mô hình phát triển kinh tế tư bản và không thể giải quyết một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa.

Tiếp theo, bài viết đã cắt nghĩa, lý giải rất sâu sắc bản chất của thể chế chính trị tư bản, bản chất của tự do dân chủ tư bản: “Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ ở nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ, tự do” mà phương tây ra sức quảng bá, áp đặt trên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân – Yếu tố bản chất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vốn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới ¾ nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản”.

Vạch trần bản chất của nền dân chủ tư sản, bài viết phân tích: “Sự rêu rao, bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng và điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi Chính phủ, nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị, đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản. 

Sau khi vạch trần bản chất của phương thức sản xuất chủ nghĩa tư bản hiện đại và thể chế chính trị của xã hội tư bản, bài viết của Tổng Bí thư đã tập trung luận giải sâu sắc:  Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Bài viết đã phân tích sâu sắc một số vấn đề chủ yếu:

Khái quát được khát vọng của toàn dân ta trong sự nghiệp xây dựng một xã hội mới, với các giá trị đích thực đó là: một xã hội mà trong đó sự phát triển thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên nhân phẩm con người.

Sự phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ công bằng xã hội chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. 

Một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và phe nhóm. 

Sự phát triển bền vững hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ vì hủy hoại môi trường. 

Một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. 

Bài viết của Tổng Bí thư đã xác định “Những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.

Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luân, Đảng ta từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ, từng bước khắc phục được một số quan niệm đơn giản trước đây: như đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt, nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản. 

Về thời kỳ quá độ, Đảng ta nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn, phúc tạp vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề, các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa, bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển. Cho đến nay, dù còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, Đảng ta đã hình thành nhận thức tổng quát xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: Một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp. Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển. Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cọng sản lãnh đạo. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Để thực hiện thành công tác mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta phải nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau:

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. 

Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản trên, phải đặc biệt chú trọng, nắm vững và giải quyết các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển, giữa đổi mới kinh tế và chính trị, giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, không phiến diện, cực đoan, duy ý chí. 

Sau khi phân tích sâu sắc và luận chứng thuyết phục những đặc trưng, mục tiêu và các phương hướng chủ yếu để hiện thực hóa các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, bài viết của Tổng Bí thư đã nêu bật: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn chúng ta có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu, bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. 

PGS, TS Đào Duy Quát. Ảnh: Đình Nam 

PV: Một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta được Tổng Bí thư nhắc đến trong bài viết là: Quan niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xin đồng chí chia sẻ về nội dung, tầm quan trọng của quan niệm này?

Đồng chí Đào Duy Quát: Nếu sáng tạo được hiểu là làm ra cái mới, chưa ai làm. Đột phá là phá vỡ một hoặc một số khâu của một hệ thống, tạo ra những chuyển biến mới, mạnh mẽ. Thì việc Đảng ta đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo. Hình thành được quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một thành tựu lý luận đặc biệt quan trọng, là kết quả của quá trình nghiên cứu lý luận tổng kết thực tiễn thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng từ Đại hội VI. Vào thời điểm này, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước đang đối mặt với những thách thức, khó khăn gay gắt, sản xuất trì trệ, lưu thông rối ren, mất cân đối lớn trong nền kinh tế, ¾ dân số sống dưới mức nghèo khổ. Trước tình hình này, Đảng ta cho rằng, muốn làm tròn trách nhiệm của mình “Đảng phải đổi mới về nhiều mặt”. Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Đổi mới tư duy không chỉ là đổi mới nội dung tư duy mà còn phải đổi mới quan niệm. Thời điểm này, chúng ta đang có sự lạc hậu về nhận thức lý luận, có nhiều quan niệm lạc hậu về công nghiệp hóa, về cải tạo quan hệ sản xuất, về cơ chế quản lý kinh tế, về phân phối lưu thông. Trên cơ sở đổi mới mạnh mẽ tư duy, nhất là tư duy kinh tế, thông qua nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn Đảng ta từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ, từng bước khắc phục những quan niệm giản đơn, không phù hợp trong kinh tế như nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. 

Trên cơ sở nhận thức đúng hơn và sâu sắc hơn quan niệm về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn quan niệm về bỏ qua chế độ tư bản, từng bước Đảng ta đã hình thành quan niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.  Trong Nghị quyết Đại hội VI, Đảng ta xác định, kiên quyết xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, cơ chế mới lấy kế hoạch làm trọng tâm, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa, tiền tệ, quản lý bằng phương pháp kinh tế.

Đến Đại hội VII, Đảng ta đưa ra quan niệm phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. 

Đến Đại hội XIII, Đảng ta đã phát triển hoàn thiện quan niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 

Đây là quan niệm mới, một đột phá lý luận rất cơ bản của Đảng vì nó phá vỡ, xóa bỏ quan niệm về cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, tạo ra bước chuyển mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta. Quan niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một sáng tạo, lý luận của Đảng ta, đúng như bài viết của Tổng Bí thư đã luận giải: “Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường, một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt sở hữu, tổ chức, quản lý, phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và càng không phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ. Đây là kiểu kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 

Cần nhận thức sâu sắc những nội dung cơ bản của quan niệm rất quan trọng này. Đây là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường ( quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật giá trị thặng dư…)

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó nền kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển, kinh tế tư nhân là một bộ phận, động lực quan trọng của nền kinh tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển, thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch chính sách và lực lượng vật chất để định hướng điều tiết, thúc đẩy khai thác phát triển kinh tế - xã hội.

Một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường của Việt Nam là gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. 

Mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội, mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc, bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hình thành quan niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – Mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây thực sự là một đột phá lý luận rất căn bản, sáng tạo của Đảng ta.

Công cuộc đổi mới trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi và phát triển mạnh mẽ, to lớn, toàn diện. Nền kinh tế nước ta đã vượt qua cuộc khủng hoảng trầm trọng, phát triển liên tục với tốc độ cao, đưa nước ta từ nước kém phát triển trở thành nước đang phát triển với thu nhập bình quân đầu người hơn 3.500 USD, tăng 17 lần so với trước đổi mới. 

PV: Theo đồng chí, chúng ta cần làm gì để góp phần từng bước hiện thực hóa thắng lợi những tư tưởng trong bài viết của Tổng Bí thư?

Đồng chí Đào Duy Quát: Ở tầm cao tư tưởng, lý luận và thực tiễn, bài viết của Tổng Bí thư đã hệ thống và luận giải những nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam được kết tinh trong Cương lĩnh và Đường lối Đại hội XIII của Đảng. 

Bài viết đã luận giải sâu sắc, và luận chứng thuyết phục về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam trên cả ba phương diện học thuyết, phong trào và thể chế. Do đó, cần được nghiên cứu sâu sắc bài viết này để bổ sung hoàn thiện giáo trình lý luận Mác Lê – nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là giáo trình kinh tế học Mác – Lê nin và giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học nhằm tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị trong thời kỳ mới.

Bổ sung bài viết này vào chương trình học tập, nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII. Đưa phần thứ tư của bài viết đó là: Thực hiện công cuộc đổi mới đi lên CNXH ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì vào nội dung học tập, quán triệt và xây dựng chương trình hành động của các cấp ủy, các cấp chính quyền, đoàn thể, các cơ quan lập pháp và tư pháp.

Khi xây dựng chương trình hành động phải quán triệt tính chất của thời kỳ quá độ mà trong bài viết đã phân tích để từng bước hiện thực hóa 8 phương hướng gắn với giải quyết 8 mối quan hệ phức hợp với điều kiện trong từng giai đoạn cụ thể 2021-2030, 2030-2045.

Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII phải hiện thực hóa thắng lợi 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030. Vì kinh tế phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng trưởng bền vững với các khâu đột phá: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội.

Về xã hội tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng y tế giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn hóa cho nhân dân.

Về chính trị: Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng và bộ máy Nhà nước ngày càng trong sạch vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

PV: Xin trân trọng cảm ơn đồng chí!

PV

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực