(ĐCSVN) - Cuộc đàm phán Hiệp định Pa-ri được đánh giá là cuộc đàm phán dài nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam. Tại cuộc đàm phán này, sách lược ngoại giao "Tuy hai mà một, tuy một mà hai" do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng đã được các nhà đàm phán của hai đoàn Việt Nam vận dụng sáng tạo.
Tại cuộc đàm phán Pa-ri, các đoàn đại biểu của ta, Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đoàn Mặt trận Dân tộc giải phóng, sau đó là Đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã vận dụng một cách cực kỳ khôn khéo sách lược “Tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Đây là một sách lược ngoại giao lớn, chỉ rõ nét đặc thù và mối quan hệ phân công và phối hợp giữa ngoại giao miền Bắc và ngoại giao miền Nam trong nền ngoại giao Việt Nam nói chung thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sách lược đó nhằm đề cao vị trí, vai trò và tính độc lập của Mặt trận và Chính phủ cách mạng lâm thời, tập hợp thêm lực lượng và các xu hướng khác nhau ở trong nước và trên thế giới. Người đề xướng sách lược ngoại giao tài ba ấy không ai khác là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ ngoại giao lần thứ năm, ngày 16-3-1966, Người chỉ rõ: “Bây giờ, ngoại giao của ta vừa là một vừa là hai, vừa là hai mà là một. Ta vừa có ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vừa có ngoại giao của Mặt trận Dân tộc giải phóng. Hai cái vừa là hai mà lại vừa là một, vừa la một mà lại vừa là hai. Hai khối đó phải kết hợp chặt chẽ với nhau”.
|
Bà Nguyễn Thị Bình, Trưởng đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (ở giữa) ký vào Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam (Ảnh tư liệu) |
Tại cuộc đàm phán Pa-ri, ngoại giao Việt Nam đã thực hiện nghiêm chỉnh và sáng tạo lời dạy đó của Bác Hồ.
Tuy phải chấp nhận Hội nghị bốn bên, đối phương vẫn tìm mọi thủ đoạn để hạ thấp vai trò của Mặt trận và Chính phủ cách mạng lâm thời. Đoàn Mỹ luôn né tránh việc nói chuyện trực tiếp với Đoàn Mặt trận và Chính phủ cách mạng lâm thời, đòi tách riêng các vấn đề quân sự với các vấn đề chính trị trong một giải pháp toàn bộ, tức là vừa đòi hai bên cùng rút quân, vừa lẩn tránh vấn đề phải từ bỏ chính quyền Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn thì ngạo mạn tuyên bố chỉ công nhận Mặt trận như “một thực tế chứ không phải một thực thể” (!). Đáp lại, trong tư thế đại diện chân chính của miền Nam chiến đấu, Đoàn Mặt trận và Chính phủ cách mạng lâm thời đã mạnh mẽ tố cáo và đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, xóa bỏ chính quyền Sài Gòn do họ lập ra. Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong cương vị người chủ của nước Việt Nam độc lập, người đang cùng Mặt trận, Chính phủ cách mạng lâm thời và nhân dân cả nước chống xâm lược, vừa đưa ra lập trường riêng của mình, vừa ủng hộ mạnh mẽ lập trường của Mặt trận và Chính phủ cách mạng lâm thời. Trước mắt thế giới, không ai không nhận thấy rằng, lập trường và các kiến nghị về giải pháp do hai đoàn miền Bắc và miền Nam đưa ra tại Hội nghị từ lúc mở đầu đến khi kết thúc đều có chung một tiếng nói.
Có thể nói, trong các cuộc họp công khai của Hội nghị, hầu hết các sáng kiến về giải pháp đều do Đoàn Mặt trận và Chính phủ cách mạng lâm thời đưa ra và Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ủng hộ: Giải pháp toàn bộ mười điểm ngày 8-5-1969, Tuyên bố tám điểm nói rõ thêm về giải pháp cho vấn đề Việt Nam ngày 14-9-1970, Tuyên bố bảy điểm ngày 1-7-1971 và tiếp theo là Tuyên bố hai điểm nói rõ thêm tháng 2-1972. Những tuyên bố về giải pháp này đều do Đoàn Mặt trận và Chính phủ cách mạng lâm thời nêu ra, nhưng được phía Mỹ đặc biệt lưu tâm, bởi họ hiểu phía sau các đề nghị đó là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và họ có những phản đề nghị, thí dụ như: Kế hoạch tám điểm của Tổng thống Ních xơn ngày 14-5-1969 hay tuyên bố của ông ta ngày 8-6-1969 về Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và việc rút đợt đầu 25.000 quân Mỹ. Đến giai đoạn đàm phán thực chất, trong các cuộc nói chuyện riêng với Mỹ, Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã đưa ra đề nghị có ý nghĩa then chốt. Như đề nghị chín điểm ngày 26-6-1971, sau đó được Đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời đưa ra công khai tại Hội nghị bốn bên thành Tuyên bố bảy điểm ngày 01-7-1971 về thời hạn rút hết quân Mỹ và thả tù binh, thành lập ở Sài Gòn một chính phủ không có Thiệu để nói chuyện với Chính phủ cách mạng lâm thời. Cũng trong cuộc gặp riêng tại Pa-ri, ngày 8-10-1972, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã trao cho phía Mỹ dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, sau này trở thành Hiệp định chính thức được ký tại Pa-ri ngày 27-1-1973, mặc dù để đi đến việc ký kết đó, còn phải trải qua thêm 14 tháng chiến tranh ác liệt và Mỹ bị giáng một đòn chí mạng trong trận Điện Biên Phủ trên không của ta.
Như vậy, tại cuộc đàm phán Pa-ri, hai đoàn của ta đã thực hiện một cách xuất sắc vai trò và vị trí của mình. Ở đây, đã có sự phân công và phối hợp nhịp nhàng, ăn ý giữa hai đoàn trong toàn bộ quá trình đàm phán, từ việc xác định đấu pháp cho từng thời kỳ, từng phiên họp cho đến việc đưa ra sáng kiến về giải pháp tại diễn đàn công khai hay tại các cuộc gặp riêng; từ các bài phát biểu của các trưởng đoàn ta trong Hội nghị cho đến việc tranh thủ dư luận trong các cuộc họp báo của những người phát ngôn; từ các hoạt động đàm phán của hai đoàn tại Pa-ri cho đến những hoạt động ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân trên nhiều địa bàn, nhiều nước và nhiều diễn đàn khác nhau. Đáng nói nhất là trong hoạt động phong phú của mình, cả hai đoàn đàm phán của ta đều chịu sự lãnh đạo từ một trung tâm – Bộ Chính trị – trực tiếp tại chỗ là đồng chí Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị và Xuân Thủy, Bí thư Trung ương Đảng.
Sau Hội nghị Pa-ri về Việt Nam, nhất là sau khi nước nhà thống nhất, có người ví ngoại giao Việt Nam “Tuy hai mà một, tuy một mà hai”, như một vở diễn hoàn hảo. Thực ra, câu chuyện có vẻ huyền thoại mà chúng ta nói đây là một thực tế lịch sử.
Thực tế lịch sử ấy bắt nguồn từ một nước vốn là một, một nước độc lập, thống nhất sau Cách mạng tháng Tám, nhưng đã bị tạm chia cắt thành hai miền từ Hiệp định Geneve 1954.
Vì vậy, mà trong cuộc chiến đấu chung của dân tộc, cùng trên một nước lại có hai nhà nước ở hai miền. Cùng một mục tiêu chung mà có hai cuộc cách mạng. Cùng một ngọn cờ lãnh đạo mà lại có Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng miền Nam. Cùng một mặt trận dân tộc thống nhất, nhưng vừa có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lại vừa có Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Cùng một lực lượng vũ trang cách mạng, nhưng bên cạnh Quân đội nhân dân Việt Nam lại có Quân giải phóng miền Nam. Chính cái “hai mà một, một mà hai” gốc rễ ấy đã sản sinh ra một nền ngoại giao một cây hai nhánh, một cội hai cành như chúng ta đã thấy.
Sách lược về nền ngoại giao “Tuy hai mà một, tuy một mà hai” thoạt đầu được coi là một bí mật quốc gia, nhưng trải qua những năm tháng thể nghiệm thắng lợi, khi điều bí mật ấy được công khai thì mọi người lại coi đó là cái tất nhiên, cái phải như vậy. Và chỉ có như vậy mới là con người Việt Nam, trí tuệ Việt Nam, mưu lược Việt Nam./.
Hà Đăng