Hội nghị lần thứ X Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương cho rằng, Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV có nhiều nội dung mới, điểm nhấn khác biệt so với Đại hội XIII, mang tầm chiến lược, lịch sử, có tính chất cương lĩnh để thực hiện trong giai đoạn tới; đánh dấu mốc quan trọng đặc biệt cho Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, phù hợp với yêu cầu của thời đại, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
|
Tổng Bí thư Tô Lâm (Ảnh: PV) |
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII xác định, trong nhiệm kỳ Đại hội XIV, cần tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; phát huy sức mạnh văn hóa, con người và khối đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh; phát triển nhanh, bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; đưa nước ta trở thành nước đang phát triển, thu nhập trung bình cao, có công nghiệp hiện đại vào năm 2030, thiết thực kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, hướng tới hiện thực hóa tầm nhìn đến năm 2045, hoàn thành mục tiêu 100 năm thành lập nước, đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao; tạo tiền đề vững chắc để đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới vì một Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ những phân tích, nhận định trên, dễ dàng nhận thấy chuyển đổi số chính “động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”. Đúng như trao đổi của Tổng Bí thư Tô Lâm chiều ngày 31/10 vừa qua với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3) tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh khi coi chuyển đổi số là cuộc cách mạng mà chúng ta cần thực hiện để “điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi do Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại, đưa đất nước đi tắt đón đầu phát triển vượt bậc”.
Kỷ nguyên số - xu hướng thời đại
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, thuật ngữ “kỷ nguyên số” hay “thời đại kỹ thuật số” (Digital Age) được hầu hết các tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng và ngày càng trở nên phổ biến. Thuật ngữ này dùng để chỉ một giai đoạn mới trong lịch sử nhân loại, với việc chuyển đổi từ ngành công nghiệp truyền thống mà 3 cuộc cách mạng công nghiệp trước đây đã mang lại thông qua công nghiệp hoá, sang giai đoạn công nghệ số trở thành nhân tố quan trọng của lực lượng sản xuất; đồng thời xác lập một phương thức sản xuất mới, tiên tiến, hiện đại, tạo động lực mới cho sự phát triển…
Kỷ nguyên số được cho là bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX, cùng với sự ra đời của máy tính cá nhân và việc sử dụng rộng rãi internet vào thập niên sau đó. Trong kỷ nguyên này, các hoạt động/quá trình xã hội, kinh tế và chính trị được hỗ trợ bởi các ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), công nghệ kỹ thuật số như: máy tính, thư điện tử (email), Internet, trò chơi điện tử, video... Trong những năm gần đây, kỷ nguyên số được thúc đẩy mạnh mẽ hơn bởi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, gắn với quá trình chuyển đổi số toàn diện. Kỷ nguyên số cũng làm xuất hiện những dạng thức mới trong đời sống xã hội của thế giới đương đại, như đời sống số, tri thức số, văn hóa số, chính phủ số, đô thị số, công dân số… Đây cũng được xem là những yếu tố có thể tạo nên những tác động sâu sắc tới sự phát triển, vận động của thế giới cũng như của từng quốc gia, doanh nghiệp, người dân trong nhiều thập niên tới…
|
Chuyển đổi số Việt Nam tăng tốc để phát triển (Ảnh đồ họa) |
Kỷ nguyên số được cấu thành bởi 2 yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau, đó là kinh tế số và xã hội số. Tuy nhiên, 2 yếu tố này không phải là bất biến mà là quá trình động, gắn liền với chuyển đổi số (Digital Transformation) - việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau.
Trong đó, kinh tế số là nền kinh tế mà toàn bộ các hoạt động kinh tế đều dựa trên công nghệ số và nền tảng số. Kinh tế số cũng là cốt lõi của các loại hình kinh tế đang được lan tỏa như kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế thông minh, kinh tế tuần hoàn. Kinh tế số tạo điều kiện để tăng năng suất lao động, mở ra không gian tăng trưởng mới cho sự phát triển bền vững, bao trùm, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần tạo những nền tảng quan trọng cho phát triển bền vững.
Về xã hội số; đây là xã hội mà toàn bộ các hoạt động của đời sống xã hội cũng như cuộc sống của từng con người đều được ứng dụng và tích hợp công nghệ số; làm thay đổi mọi phương diện của tổ chức xã hội, từ chính phủ, cộng đồng tới từng người dân. Chuyển đổi số xã hội tập trung vào việc ứng dụng công nghệ số để nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm khoảng cách xã hội và địa lý, giảm chi phí cuộc sống, hiện thực hóa quyền lợi người dân,… trong các lĩnh vực như giáo dục, y tế, văn hóa, an toàn an ninh xã hội…
Song song, khi đề cập tới kỷ nguyên số hay chuyển đổi số, người ta cũng nhấn mạnh tới những yếu tố có vai trò nền tảng như hạ tầng số, lực lượng lao động số, các hoạt động nghiên cứu công nghệ số và đặc biệt là môi trường pháp lý cho sự vận hành và phát triển của kinh tế số, xã hội số… Trong đó, cơ sở hạ tầng kỹ thuật số bao gồm mạng Internet và những công nghệ quan trọng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như điện toán đám mây (cloud computing), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI)… Việc phát triển hạ tầng số bao gồm cả phát triển hạ tầng vật lý và phát triển hệ sinh thái tạo điều kiện cho các hoạt động số.
Chúng ta đều biết rằng, kỷ nguyên số không phải là một kết quả có sẵn mà là thành quả của cả một quá trình vận động, chuyển đổi không ngừng theo hướng số hóa, dựa vào kỹ thuật số. Trong quá trình đó, những lợi ích mang lại từ chuyển đổi số là rất lớn. Một trong những lợi ích dễ thấy nhất của chuyển đổi số là loại bỏ các công đoạn, công việc gây lãng phí thời gian một cách không cần thiết. Điều đó được thực hiện thông qua việc triển khai công nghệ kỹ thuật số, sử dụng phần mềm để tiến hành những công việc mà trước đây con người phải làm thủ công. Việc tự động hóa quy trình nghiệp vụ thường được coi là bước đệm để chuyển đổi số toàn diện hơn, đồng thời cũng là một trong những kết quả của chuyển đổi số. Bên cạnh đó, việc đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ thông qua chuyển đổi số, nhất là trong việc thực hiện các công việc có khối lượng lớn, tính chất lặp lại với độ chính xác cao hơn, thời gian nhanh hơn… sẽ giúp tổ chức cung cấp dịch vụ nâng cao hiệu quả hoạt động, thậm chí có thể cắt giảm nhiều nhân lực.
Ở góc độ của người thụ hưởng dịch vụ, thông qua chuyển đổi số, họ cũng sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí hơn; có điều kiện tiếp cận các dịch vụ và sự hỗ trợ thông qua các phương thức tương tác ưa thích. Chẳng hạn như thông qua khai thác hiệu quả các công cụ kỹ thuật số, tổ chức có thể thiết lập hệ thống hỗ trợ đa kênh, cho phép khách hàng, người sử dụng dịch vụ liên hệ, trò chuyện trực tiếp trên trang web, email, ứng dụng dành cho thiết bị di động hoặc thông qua diễn đàn được hỗ trợ bởi AI. Qua đó, các tổ chức có thể theo dõi các tương tác, nắm bắt và thu thập phản hồi từ khách hàng, từ đó xử lý, đưa ra các giải pháp được cá nhân hóa. Tương tự, các tổ chức có thể sử dụng những công cụ và quy trình kỹ thuật số để giúp đối tượng dễ dàng tiếp cận thông qua hệ thống dịch vụ trực tuyến, thương mại điện tử và các nền tảng di động và những công cụ kỹ thuật số khác…
Nếu như những lợi ích trên là rất dễ nhìn thấy và cảm nhận, thậm chí được xem là “thước đo” của chuyển đổi số thì cải thiện việc ra quyết định được xem là hiệu quả nội tại quan trọng nhất của tiến trình này. Theo đó, việc thực hiện các quy trình kỹ thuật số có khả năng xác định rõ những điểm mạnh và những điều tổ chức cần phải cải thiện. Tất cả dữ liệu được lưu trữ dưới dạng kỹ thuật số, thường là trong thời gian thực, làm cho việc nhận dạng các mẫu và xác định cơ hội cải tiến dễ dàng hơn nhiều. Kho lưu trữ dữ liệu trung tâm cũng có thể được khai thác để hiểu rõ hơn về những điểm “tắc nghẽn” trong quy trình làm việc, những vấn đề thường xảy ra nhất, hiệu suất của nhân viên, sở thích - hành vi của khách hàng và nhiều lĩnh vực khác. Việc sử dụng các công cụ kỹ thuật số và phát triển các quy trình liên quan cũng sẽ giúp tổ chức dễ dàng hơn nhiều trong việc tạo báo cáo và xác định các lĩnh vực cần cải thiện so với việc khảo sát, lấy mẫu và thu thập phản hồi thủ công.
Các tổ chức cũng có thể thúc đẩy hiệu quả việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ thông qua tích hợp các công cụ kỹ thuật số, điều chỉnh các quy trình hiện có từ việc thiết lập các điểm kiểm tra kỹ thuật số hoặc tự động hóa quy trình và giám sát đầu ra thông qua các thiết bị IoT. Với nhiều dữ liệu hơn và quy trình xử lý dữ liệu được tối ưu hóa, việc ra quyết định sẽ không chỉ nhanh hơn mà còn có chính xác hơn.
Ngoài ra, một lợi ích quan trọng khác của chuyển đổi số là phá vỡ các hệ thống hạn chế và tận dụng các giải pháp thay thế hiện đại. Trên thực tế, các quy trình được đưa ra dựa trên công nghệ cũ thường có độ trễ so với thực tế, đòi hỏi đầu vào thủ công và điều này có thể tạo ra những “điểm nghẽn”, nhất là khi khối lượng công việc tăng đột biến. Trong khi đó, các quy trình dựa trên công nghệ số có khả năng tích hợp cao hơn, dễ kết nối các bộ phận khác nhau trong nội bộ, bảo đảm sự vận hành thông suốt và linh hoạt, từ đó nâng cao hiệu quả. Chuyển đổi số cũng cho phép các tổ chức phản ứng nhanh hơn với những xu hướng mới, nhất là xu hướng luôn thay đổi của thị trường.
Với các công nghệ mới, điển hình như chuỗi khối (Blockchain), tính bảo mật, sự an toàn, tin cậy và minh bạch của dữ liệu nội bộ, dữ liệu khách hàng được bảo đảm ở mức độ cao hơn, từ đó làm giảm các rủi ro kỹ thuật số, giảm chi phí vận hành cho các hệ thống…
Cách mạng chuyển đổi số tạo động lực mới cho phát triển
Tổng Bí thư Tô Lâm đã từng nhấn mạnh, chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số.
|
Chuyển đổi số là xu hướng thế tất yếu của thời đại (Ảnh đồ họa) |
Trong Văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, khái niệm chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số lần đầu tiên được đề cập và nhấn mạnh nhiều lần trong mục tiêu, quan điểm phát triển cũng như các đột phá chiến lược. Điều này cũng cho thấy, chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế số là một trong những quan điểm thể hiện ý chí, khát vọng phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Trong thực tế, cũng xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu để tìm ra mô hình tăng trưởng mới cho Việt Nam trong kỷ nguyên tiếp theo và tất cả đều chung nhận thức cần phải dựa trên trụ cột của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển khởi nghiệp và đóng góp của khu vực doanh nghiệp tư nhân.
Theo phân tích của các chuyên gia, giai đoạn 2020-2022, nền kinh tế bị tác động rất mạnh của đại dịch COVID-19, càng khẳng định giá trị của kinh tế truyền thống và phương thức sản xuất trước đây không còn phù hợp với tình hình kinh tế thế giới cũng như Việt Nam trong một thế giới ngày càng bất ổn. Trong giai đoạn phục hồi kinh tế sau đại dịch, Việt Nam thường dùng khái niệm "cỗ xe tam mã" thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng kinh tế, gồm các động lực đầu tư công, xuất khẩu, tiêu dùng nội địa. Tuy nhiên, đó mới chỉ là động lực tăng trưởng trong ngắn hạn, có tính chất thời điểm vì sau dịch COVID-19, nhu cầu tiêu dùng của người dân bật lên sau thời gian bị nén lại, khiến tiêu dùng nội địa phát huy tác dụng. Nhưng khi việc mua sắm và nền kinh tế đã bão hòa, tiêu dùng nội địa không còn là cỗ xe kéo cho nền kinh tế. Đáng chú ý, đầu tư công được kỳ vọng là yếu tố mang tính chủ động của Chính phủ, tạo vốn mồi để lan tỏa, kéo theo đầu tư của các thành phần khác. Tuy nhiên, hiện có quá nhiều rào cản khiến tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công còn thấp, chưa trở thành động lực cho tăng trưởng kinh tế như kỳ vọng. Trong khi đó, hoạt động xuất khẩu lại phụ thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cũng theo các chuyên gia, khẳng định của Tổng Bí thư và từ những chỉ đạo vừa qua về cách mạng chuyển đổi số cùng thực tiễn đất nước hiện nay cho thấy, thông điệp về chuyển đổi số sẽ được lan tỏa, tạo động lực thúc đẩy cả hệ thống chính trị vào cuộc, hình thành cuộc cách mạng trong chuyển đổi số để nâng cao năng lực của lực lượng sản xuất và phát triển quan hệ sản xuất phù hợp với tình hình mới của đất nước. Điều này cũng minh chứng cho sự rõ ràng, mạch lạc về mặt tư tưởng, quan điểm chỉ đạo để từ đó làm cơ sở ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp, tạo ra sức bật cho nền kinh tế thay vì trước đây, đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ chỉ được nhìn nhận với tính chất cục bộ theo ngành, chưa có tính hệ thống.
Đồng thời, khi đã xác định rõ vai trò của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế tri thức, chuyển đổi số là chìa khoá tạo ra động lực tăng trưởng thì cần tìm cơ chế để các động lực này truyền dẫn, tác động vào nền kinh tế. Tuy nhiên, muốn phát huy tối đa vai trò của đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, cần tháo gỡ những rào cản đang cản trở doanh nghiệp khi tiếp cận những động lực tăng trưởng mới này cũng như chú ý tới các vấn đề nội dung then chốt tạo nên cuộc cách mạng trong chuyển đổi số để nâng cao năng lực của lực lượng sản xuất và phát triển quan hệ sản xuất phù hợp với tình hình mới của đất nước, gồm có: tạo ra hành lang pháp lý vững chắc cho những doanh nghiệp tiên phong tham gia đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số có được sự bảo vệ cần thiết; nguồn lực xã hội cũng phải đầu tư tương xứng cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Trong thực tế, vốn cung cấp cho nền kinh tế được phân phối chủ yếu thông qua hệ thống ngân hàng. Do đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần có chính sách để các ngân hàng thương mại ưu tiên vốn cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, để bảo đảm khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phát triển bền vững, cần chuẩn bị trước cho các kịch bản xấu. Thực tế cho thấy, đã từng có những cuộc khủng hoảng thừa và thiếu của nền kinh tế thực, kinh tế hàng hóa, đã từng có khủng hoảng tài chính, ngân hàng thì khi kinh tế số phát triển cũng phải lường trước những khuyết tật của mô hình kinh tế mới này và những khủng hoảng do tấn công mạng, thao túng dữ liệu... Có như vậy mới bảo đảm cho sự phát triển bền vững của kinh tế số và tạo ra động lực lâu dài.
Hơn bao giờ hết, cần nhận thức sâu sắc rằng, để thúc đẩy khoa học công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, rất cần bàn tay hữu hình của Nhà nước, nếu không, chủ trương này sẽ tiếp tục có những hạn chế khi triển khai vào cuộc sống và mang tính chất phong trào nhiều hơn là hiệu quả thực thi.
Có thể thấy, là quốc gia đang tích cực hội nhập toàn diện, sâu rộng với thế giới, nhất là hội nhập về kinh tế, kỷ nguyên số, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng như tiến trình chuyển đổi số mạnh mẽ trên toàn cầu trong giai đoạn hiện nay chính là bối cảnh, môi trường đồng thời là cơ hội quan trọng cho sự phát triển của Việt Nam.
Kỷ nguyên số - kỷ nguyên gắn liền với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tiến trình chuyển đổi số là một xu thế tất yếu. Kỷ nguyên này mang đến những cơ hội rất quan trọng cho sự phát triển của nhân loại nói chung, đất nước Việt Nam nói riêng.
Với những kết quả đã đạt được trong thời gian qua và những định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước trong chuyển đổi số, chúng ta càng có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để vững tin khẳng định của Tổng Bí thư Tô Lâm rằng, “với thế và lực tích luỹ được sau 40 năm đổi mới đất nước; với những kết quả đã đạt được trong thời gian qua và những định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước trong chuyển đổi số, chúng ta có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để tin rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành công cuộc cách mạng chuyển đổi số, tạo ra bước đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước ta, dân tộc ta vươn mình vượt bậc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tiên tiến, văn minh, hiện đại”./.