Áp dụng giải pháp kỹ thuật phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Thứ hai, 24/09/2018 10:17
(ĐCSVN) - Trước tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) ngày càng diễn biến phức tạp, việc áp dụng các giải pháp kỹ thuật được xem như là một trong những giải pháp cần thiết để hạn chế tình trạng này.
Làm bờ kè ly tâm để tránh tình trạng sạt lở ở tỉnh Cà Mau. (Nguồn: TTXVN)

Theo Vụ Kiểm soát An toàn thiên tai – Tổng cục Phòng chống thiên tai, trong những năm gần đây, do diễn biến bất thường của thời tiết, nhất là ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nước biển dâng cùng với tác động của việc phát triển kinh tế - xã hội kém bền vững dẫn đến tình hình sạt lở bờ sông, xói lở bờ biển ở vùng ĐBSCL đã và đang diễn ra rất phức tạp.

Từ năm 2007 đến nay, diễn biến sạt lở bờ sông, bờ biển vùng ĐBSCL có xu thế gia tăng cả về phạm vi và quy mô. Tại nhiều khu vực, sạt lở đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân, tác động tiêu cực đến phát triển bền vững kinh tế - xã hội vùng ven sông, ven biển. Qua công tác quản lý và báo cáo của các địa phương, hiện ĐBSCL có đến hơn 562 vị trí bờ sông, bờ biển bị sạt lở với tổng chiều dài gần 786km, trong số đó có 59 điểm sạt lở đặc biệt nguy hiểm với tổng chiều dài 180 km.

Những năm qua, vùng ĐBSCL đã được hỗ trợ đầu tư hàng nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Trung ương, nguồn vốn ODA để xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển. Nhiều đề tài khoa học, dự án thử nghiệm đã được nghiên cứu, áp dụng nhằm đề xuất các giải pháp phù hợp để xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển. Đặc biệt, các giải pháp kỹ thuật được xem là một trong những hướng đi quan trọng để hạn chế tình trạng trên.

Dù vậy, theo đánh giá của Vụ Kiểm soát An toàn thiên tai, hiện nay, việc áp dụng các giải pháp kỹ thuật ở vùng ĐBSCL vẫn còn tồn tại nhiều điểm hạn chế. Trong đó, việc một số công trình áp dụng giải pháp kỹ thuật chưa phù hợp với điều kiện tự nhiên hoặc chưa bám sát các quy định về tiêu chuẩn thiết kế, thi công nên đã bị hư hỏng, hoặc không đạt được mục tiêu đề ra.

Về phòng chống sạt lở bờ sông, hầu hết các công trình được thực hiện tại những khu vực đã bị sạt lở theo hướng “hỏng đâu làm đấy”, thiếu kế hoạch dài hạn, căn cơ cho toàn hệ thống sông, kênh, rạch trong vùng.

Bên cạnh đó, việc áp dụng giải pháp chỉnh trị bằng hệ thống mỏ hàn cứng tại khu vực đang có diễn biến xói lở phức tạp còn chưa tính toán, xác định đầy đủ các yếu tố thủy văn, thủy lực, địa chất công trình; quá trình diễn biến xói lở bờ, hình thành bãi bồi,… Các thông số kỹ thuật của hệ thống mỏ hàn và của từng mỏ không được xác định trên cơ sở mô hình thủy lực như quy định tại Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 8419:2010, do vậy hiệu quả chỉnh trị đạt được chưa cao.

Về phòng chống sạt lở bờ biển, kè chống sóng và một số tuyến kè bảo vệ bờ chưa phù hợp, quy mô công trình khá lớn, song diện tích bảo vệ còn hạn chế. Việc tính toán và bố trí tường hắt sóng tại những công trình chưa phù hợp, gây hư hỏng khi thường xuyên chịu tác động của sóng.

Mặt khác, tuyến kè giảm sóng hầu hết chưa được lượng hóa cụ thể thông qua tính toán các yếu tố về sóng, thủy triều, đường bờ nên hiệu quả gây bồi chưa cao. Việc giảm sóng gây bồi bằng hàng rào tre kết hợp với việc trồng cây chắn sóng áp dụng tại nhiều khu vực, nhất là nơi đang có diễn biến xói lở chỉ có tác dụng trong khoảng 2 năm đầu sau khi đưa vào sử dụng, không có tác dụng lâu dài do vật liệu giảm sóng bằng tre không bền vững.

Nhằm áp dụng hiệu quả các giải pháp kỹ thuật để xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển, theo Vụ Kiểm soát An toàn thiên tai, cần giải quyết hiệu quả vấn đề mất cân bằng bùn cát trên sông, kênh rạch và vùng ven biển, lún sụt đất. Tăng cường công tác quản lý bờ sông, kênh rạch, bờ biển, giảm tác động gây xói lở theo hướng quản lý tổng hợp, dành không gian thoát lũ, làm đường giao thông... Cùng với đó, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong phòng chống sạt lở bờ sông, kênh, rạch, xói lở bờ biển, lún sụt đất, trồng và phục hồi rừng ngập mặn thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh.

Đáng chú ý, đối với bờ sông, vùng thượng nguồn, cần tăng cường hợp tác quốc tế trong việc quản lý bền vững sông Mê Kông. Đối với vùng đồng bằng, cần rà soát, chỉ cấp phép khai thác cát với khối lượng hợp lý đảm bảo sự cân bằng tương đối; sử dụng hợp lý bùn cát nạo vét để san lấp, đắp đê, làm đường; nghiên cứu đề xuất các giải pháp thay thế cát san lấp và cát xây dựng, tiến tới không sử dụng cát để san lấp. Ngoài ra, cần quản lý chặt chẽ việc xây dựng nhà ở, công trình ven sông để hạn chế chất tải lên bờ sông, kênh rạch, cản trở dòng chảy.

Với việc quy hoạch chỉnh trị sông cần gắn với quy hoạch sử dụng đất ven sông theo hướng dành không gian thoát lũ; điều tra, cập nhật cơ sở dữ liệu liên quan đến sạt lở bờ sông; nghiên cứu toàn diện về sự thay đổi lòng dẫn, dòng chảy sông Mê Kông, chế độ thủy văn, cân bằng bùn cát.

Về giải pháp công trình, cần thực hiện chỉnh trị sông đảm bảo ổn định lòng dẫn, ổn định dòng chảy cả mùa lũ và mùa kiệt, tập trung vào sông Tiền, sông Hậu, chỉ xây dựng công trình phòng chống sạt lở tại những phân lưu, hợp lưu, khu tập trung dân cư, cơ sở hạ tầng quan trọng.

Đối với vùng bờ biển, cần quản lý tổng hợp vùng bờ theo hình thức xã hội hóa, gắn trách nhiệm trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng ven biển; kiểm soát việc sử dụng và khai thác nước ngầm để hạn chế các tác động gây xói lở bờ biển; quy hoạch hệ thống quan trắc diễn biến xói lở bờ biển, nước biển dâng. Về giải pháp công trình, cần ưu tiên các giải pháp mềm như nuôi giữ bãi, trồng rừng ngập mặn; ứng dụng công nghệ giải quyết khu vực sạt lở phức tạp, chú trọng giải pháp giảm sóng gây bồi đảm bảo bền vững, không gây sạt lở lan truyền./.

BT

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực