Hoàn thiện chính sách pháp luật về Tư pháp người chưa thành niên

Thứ tư, 28/12/2022 16:34
(ĐCSVN)- Hệ thống pháp luật điều chỉnh đối với người chưa thành niên đã tương đối đầy đủ, phù hợp với quan điểm, chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước và quốc tế. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật này vẫn còn những hạn chế, bất cập trong quá trình triển khi thi hành trên thực tiễn.

I. Thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về tư pháp người chưa thành viên:

1. Kết quả đạt được:

Qua tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về tư pháp người chưa thành niên[1] thời gian qua của Việt Nam, thấy rằng chúng ta đã đạt được một số kết quả tích cực như: Đã xây dựng được một hệ thống pháp luật tư pháp người chưa thành niên với nhiều đạo luật[2] và các văn bản dưới luật, từng bước hình thành hệ thống pháp luật về tư pháp người chưa thành niên; hệ thống cơ quan bảo vệ trẻ em, người chưa thành niên, đặc biệt là hệ thống Tòa gia đình và người chưa thành niên từng bước được kiện toàn; trong xử lý hành chính người chưa thành niên vi phạm pháp luật đã ưu tiên áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng (nhắc nhở; quản lý tại gia đình; giáo dục dựa vào cộng đồng) thay vì xử phạt; trong xử lý hình sự, từng bước hoàn thiện các thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người chưa thành niên. Việc xử lý chuyển hướng và áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt đối với người chưa thành niên phạm tội đã được đặt ra; các biện pháp thay thế, tái hòa nhập cộng đồng, hạn chế áp dụng hình phạt tù, tăng cường áp dụng biện pháp không giam giữ... bước đầu được tăng cường; khuyến khích cộng đồng xã hội tham gia giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên vi phạm pháp luật; xóa bỏ định kiến, kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người phạm tội là người dưới 18 tuổi.

2. Hạn chế, bất cập:

2.1. Hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật:

Có thể nói, sau 15 năm triển khai thi hành Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó vấn đề tăng cường thực hiện quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân, với nhiều giải pháp đặc biệt là “phát huy cao độ nội lực, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế”, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật phù hợp với bối cảnh của Việt Nam. Theo đó, hệ thống pháp luật điều chỉnh đối với người chưa thành niên đã tương đối đầy đủ, phù hợp với quan điểm, chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước và quốc tế. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật này vẫn còn những hạn chế, bất cập trong quá trình triển khi thi hành trên thực tiễn. Cụ thể:

- Pháp luật về tư pháp người chưa thành niên nằm tản mát ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau;

- Việc xử lý vi phạm đối với người chưa thành niên không thống nhất, quy định về các biện pháp xử lý còn chồng lấn, không phù hợp; trình tự, thủ tục giải quyết được thực hiện bởi chủ thể khác nhau, đối tượng tham gia khác nhau dẫn đến bị cắt khúc và còn thiếu sự thân thiện đối với người chưa thành niên;

- Hành vi vi phạm hành chính có trường hợp xử lý nặng hơn xử lý hình sự như: Biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng trong xử lý vi phạm hành chính nặng hơn so với hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền; biện pháp giám sát, giáo dục khiển trách; hòa giải tại cộng đồng trong xử lý hình sự.

- Nhiều quy định của pháp luật về tư pháp người chưa thành niên còn lạc hậu; chưa quy phạm hóa cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia;

- Hệ thống hình phạt còn hạn chế so với quốc tế. Việt Nam mới chỉ dừng lại ở 04 loại hình phạt chính (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn), trong khi theo thông lệ quốc tế thì hình phạt có tính điển hình thường gồm 15 biện pháp như: Cảnh báo; Thả có điều kiện; Hoàn trả/bồi thường; Phạt tiền; Lao động công ích; Điều kiện về hành vi; Hướng dẫn và cố vấn; Yêu cầu tư vấn/điều trị; Chương trình giáo dục, đào tạo hoặc phục hồi; Quản chế (giám sát tại cộng đồng với các điều kiện về hành vi và chương trình giáo dục); Án treo hoặc án có điều kiện; Trung tâm báo cáo thường xuyên; Giam giữ tại gia; Trường giáo dưỡng; Phạt tù;

- Chưa quy định cụ thể về sự tham gia của nhân viên công tác xã hội trong quá trình xử lý vi phạm đối với người chưa thành niên. Đặc biệt, việc xem xét, áp dụng các biện pháp giam giữ chủ yếu do đánh giá của người có thẩm quyền thuộc cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, chưa có cơ chế đánh giá dựa trên báo cáo lý lịch xã hội về người chưa thành niên do cán bộ công tác xã hội/nhân viên quản chế chuẩn bị;

- Các biện pháp xử lý chuyển hướng còn ít và mang tính hình thức; chưa có quy định về xử lý vi phạm trong quá trình thi hành biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính; biện pháp giám sát, giáo dục khi được miễn trách nhiệm hình sự;

- Chưa có quy định về thi hành án phạt tù đối với người chưa thành niên không nằm trong cơ sở giam giữ với người đã thành niên và thiếu cơ chế thân thiện mà mới chỉ quy định bố trí khu vực giam giữ riêng;

- Các quy định về hỗ trợ, tạo điều kiện cho người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng còn ít, chưa đa dạng, chưa phát huy được hiệu quả trên thực tiễn;

- Các quy định về tố tụng cho người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng còn chưa đầy đủ, đặc biệt các quy định về thu thập chứng cứ chưa bảo đảm tính thân thiện.

 

2.2. Hạn chế, bất cập trong thực thi tư pháp người chưa thành niên:

Thứ nhất, hoạt động của các cơ quan trong xử lý tư pháp về người chưa thành niên như: Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án Nhân dân tối cao,.... chưa đồng bộ, thiếu thống nhất do chưa có một cơ quan đứng ra làm đầu mối quản lý nhà nước chung về tư pháp người chưa thành niên. Nhất là việc thống kê, báo cáo, phân tích số liệu về người chưa thành niên được thu thập theo hệ thống riêng của từng cơ quan, chưa được thực hiện đầy đủ và có hệ thống.

Thứ hai, cơ quan, người có thẩm quyền tham gia trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên còn thiếu chuyên nghiệp, chưa đồng bộ; chưa xây dựng được các bộ phận, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chuyên trách về người chưa thành niên ở tất cả các cơ quan, mới chỉ thực hiện một phần tại Tòa án Nhân dân (tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên); hệ thống các cơ quan, tổ chức hoạt động bổ trợ cho tư pháp người chưa thành niên chưa được xem xét đánh giá phù hợp. 

Thứ ba, việc áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục người chưa thành niên khi được miễn trách nhiệm hình sự chưa đạt như mong muốn, ít được áp dụng, còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn; cơ chế thi hành các biện pháp này được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, thiếu đồng bộ, rời rạc, chưa được quan tâm đúng mức.

Thứ tư, việc tổ chức thi hành án và giáo dưỡng đối với người dưới 18 tuổi chưa quán triệt, thực hiện đầy đủ nguyên tắc phải phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành và khả năng nhận thức của người chưa thành niên; các chương trình giáo dục, dạy nghề, hướng nghiệp cho đối tượng này còn hạn chế.

Thứ năm, công tác quản lý, hỗ trợ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng còn chưa kịp thời; việc phối hợp trong phân công quản lý, giám sát người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, ban, ngành.

Thứ sáu, hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật liên quan đến tư pháp người chưa thành niên chưa được thực hiện chuyên nghiệp và chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao.

Thứ bảy, ngân sách nhà nước bố trí triển khai các hoạt động về tư pháp người chưa thành niên còn thiếu và hạn hẹp.

II. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tư pháp người chưa thành niên:

1. Xây dựng đạo luật tư pháp người chưa thành niên toàn diện, đồng bộ:

Mặc dù hiện nay, pháp luật về tư pháp người chưa thành niên của Việt Nam cơ bản đã được điều chỉnh khá đầy đủ, tuy nhiên như mục 2 của tham luận nêu trên thấy rằng các quy định này đang bị tản mạn, chồng chéo, mâu thuẫn, nhiều tầng nấc. Trong khi đó, người chưa thành niên là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt, là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần. Theo các nhà khoa học, não bộ của người chưa thành niên còn chưa phát triển đầy đủ về cấu trúc và chức năng, có tác động đến khả năng ra quyết định và gia tăng xu hướng có những hành vi tự phát, thiếu cân nhắc và thậm chí liều lĩnh hơn so với người trưởng thành. Với một cơ thể chưa phát triển đầy đủ và kinh nghiệm sống ít ỏi, người chưa thành niên thường không có được những quyết định và hành vi đúng đắn. Cũng vì thế mà họ không thể tự bảo vệ mình một cách tốt nhất trước bất kỳ sự xâm hại vô ý hay cố ý nào. Đặc biệt, khi tham gia vào một mối quan hệ xã hội nào đó, nhất là mối quan hệ với cơ quan công quyền, với quy trình tố tụng phức tạp, do chưa đủ năng lực để hiểu về pháp luật và quyền lợi của mình, hầu hết trong số họ đều cảm thấy xa lạ và có phần lo sợ; họ trở thành đối tượng dễ bị tổn thương, thua thiệt, thậm chí bị xâm hại bởi chính từ các mối quan hệ này. Trong khi cha mẹ hay người đại diện theo pháp luật của họ không phải lúc nào cũng sẵn sàng và có đủ khả năng để giúp họ tự vệ. Do đó, để đảm bảo người chưa thành niên là người vi phạm pháp luật hay nạn nhân, nhân chứng được tốt hơn, phải hình thành một hệ thống riêng biệt, với cách tiếp cận chuyên biệt, cá thể hóa để bảo vệ và giải quyết các vấn đề có liên quan của người chưa thành niên.

Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á, thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em. Tiếp đó, chúng ta còn phê chuẩn thêm 06 văn kiện quốc tế về quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng[3]. Cam kết bảo đảm 04 nhóm quyền cơ bản của trẻ em là: (1) Nhóm quyền được sống[4]; (2) Nhóm quyền được phát triển[5]; (3) Nhóm quyền được bảo vệ[6]; (4) Nhóm quyền được tham gia[7]. Thực hiện các công ước của Liên hợp quốc, chúng ta đã nội luật hóa nhiều cam kết quốc tế, bước đầu hình thành hệ thống pháp luật bảo vệ người chưa thành niên. Tuy vậy, vẫn còn nhiều nội dung chưa được luật hóa, một số quy định chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa xây dựng được một đạo luật chuyên biệt và hoàn thiện về tư pháp người chưa thành niên. Do đó, tại Kết luận của Ủy ban Quyền trẻ em Liên Hợp quốc về báo cáo thực hiện Công ước quyền trẻ em lần thứ 5 và 6 của Việt Nam mới được thông qua ngày 19/9/2022 tại Geneva, Thụy Sĩ đã khuyến nghị Việt Nam “cân nhắc xây dựng và ban hành một đạo luật toàn diện về tư pháp người chưa thành niên nhằm tạo khung khổ pháp lý cho hệ thống tư pháp người chưa thành niên”.

Theo đó, việc xây dựng một đạo luật tư pháp người chưa thành niên toàn diện, đồng bộ là cần thiết.

2. Một số định hướng xây dựng, hoàn thiện Luật Tư pháp người chưa thành niên:

2.1. Phạm vi điều chỉnh:

Hiện nay, khái niệm “Tư pháp người chưa thành niên” có thể được nhìn nhận từ ba góc độ: (1) các chuẩn mực quốc tế; (2) pháp luật của một số quốc gia; và (3) pháp luật Việt Nam.

Theo các chuẩn mực quốc tế, hệ thống tư pháp người chưa thành niên bao gồm: (1) khung pháp lý (luật, chính sách, hướng dẫn, tập quán pháp) về tư pháp người chưa thành niên; (2) các cơ quan nhà nước, tổ chức, cán bộ, nhân viên chịu trách nhiệm về công tác tư pháp đối với người chưa thành niên và chịu trách nhiệm tham gia bảo vệ quyền lợi cho người chưa thành niên trong tiếp cận công lý, chẳng hạn như cảnh sát, kiểm sát viên, luật sư, tòa án, cơ quan phúc lợi xã hội, cơ sở giáo dục, cơ sở giam giữ, và cộng đồng dân cư. Cũng từ góc độ chuẩn mực quốc tế, có thể nhận thấy đối tượng người chưa thành niên trong khái niệm “Tư pháp người chưa thành niên” chỉ bao gồm người chưa thành niên vi phạm pháp luật.

Ở góc độ pháp luật của một số quốc gia, khái niệm Tư pháp người chưa thành niên” hoàn toàn có thể được xây dựng với phạm vi nội hàm khác nhau ở các quốc gia khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm riêng về lịch sử, văn hóa, điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội.

Khái niệm Tư pháp người chưa thành niên” từ góc độ pháp luật Việt Nam, hiện nay mặc dù chưa có một đạo luật chuyên biệt về tư pháp người chưa thành niên, nhưng Việt Nam cũng đã bước đầu xây dựng được một tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến một số đối tượng là người chưa thành niên có tiếp xúc với hệ thống tư pháp, nằm rải rác trong nhiều đạo luật khác nhau như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Thi hành án hình sự… và các văn bản dưới luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Giáo trình Tư pháp đối với người chưa thành niên của Trường Đại học Luật Hà Nội cũng đưa ra định nghĩa: “Ở góc độ pháp luật Việt Nam, tư pháp đối với người chưa thành niên được hiểu là một phần của hệ thống tư pháp, trong đó điều chỉnh, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội của người chưa thành niên, đồng thời cũng bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên theo quy định của pháp luật.[8].

Như vậy, trước mắt để trách tác động nhiều đến việc điều chỉnh các đạo luật khác có liên quan (Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Tố tụng hành chính; Luật Xử lý vi phạm hành chính.....), phạm vi điều chỉnh của Luật này nên chỉ điều chỉnh theo nghĩa hẹp bao gồm: (1) Tư pháp hình sự về người chưa thành niên vi phạm pháp luật; (2) Tư pháp hình sự về trình tự, thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên là người bị buộc tội; bị hại, người làm chứng, đương sự trong vụ án hình sự;(3) Tư pháp người chưa thành niên về thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng.

2.2. Tư pháp hình sự về người chưa thành niên vi phạm pháp luật:

Hiện nay, chế tài quy định xử lý hình sự đối với người chưa thành niên được quy định tại Bộ luật Hình sự và cụ thể các nguyên tắc, định hướng tại Chương XII, Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Hình sự, gồm 05 mục và 18 điều (từ Điều 90 đến Điều 107). Để chế tài xử lý vi phạm này thống nhất, đồng bộ, tránh chồng lấn với vi phạm hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên nội dung này sẽ điều chỉnh các vấn đề như sau:

- Phạm vi: Nguyên tắc, quy định chung đối với người chưa thành niên bị đề nghị xử lý trách nhiệm hình sự được áp dụng theo quy định của Luật này và các quy định khác về tội phạm của Bộ luật Hình sự.

- Nội dung cụ thể: Luật Tư pháp người chưa thành niên, sẽ thu hút Chương XII của Bộ luật Hình sự và sửa đổi, bổ sung một số quy định mới phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn của Việt Nam, cụ thể:

+ “Các biện pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự” đổi thành “Các biện pháp xử lý chuyển hướng”.

Theo quy định của chuẩn mực quốc tế và một số quốc gia trên thế giới, việc áp dụng biện pháp này được thực hiện trước khi xem xét “miễn trách nhiệm hình sự”. Việc miễn trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra, sau khi người chưa thành niên đã thực hiện biện pháp xử lý chuyển hướng, nhưng vẫn không đạt kết quả tốt. Trường hợp, người chưa thành niên thực hiện tốt, tuân thủ pháp luật, có nhiều tiến bộ mới được xem xét miễn trách nhiệm hình sự và không bị đưa vào quy trình thủ tục tố tụng hình sự truy tố trước Tòa án hoặc bị xét xử. Do đó, tên của biện pháp này cần sửa đổi thành “Các biện pháp xử lý chuyển hướng”.

Điều 92 của Bộ luật Hình sự, còn quy định chung chung về điều kiện áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và cho phép người đại diện hợp pháp của người chưa thành niên đồng ý áp dụng biện pháp này là một trong những điều kiện bắt buộc là chưa hoàn toàn phù hợp với Bình luận chung số 10 của Ủy ban quyền trẻ em (LHQ). Theo đó, việc xử lý chuyển hướng cần sửa đổi theo hướng sau đây: (1) Người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng; (2) Người chưa thành niên tự nguyện nhận trách nhiệm về hành vi vi phạm;(3) Người chưa thành niên và cha mẹ của người chưa thành niên đồng ý với xử lý chuyển hướng;(4)Hậu quả hành vi vi phạm mà người chưa thành niên gây ra không lớn;(5) Sau khi cân nhắc hoàn cảnh cụ thể của người chưa thành niên và hành vi vi phạm, việc xử lý chuyển hướng là thích hợp và vì lợi ích của nạn nhân, người vi phạm và cộng đồng;(6) Việc xử lý chuyển hướng sẽ không đặt người chưa thành niên, nạn nhân hay cộng đồng vào hoàn cảnh nguy hiểm.

Luật này, cần quy định hậu quả pháp lý của việc không tuân thủ, tuân thủ áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng. Thực tế qua tổng kết, khảo sát thời gian qua cho thấy, việc áp dụng các biện pháp này đối với người chưa thành niên là rất ít và hãn hữu. Từ năm 2019 đến năm 2021, chưa có trường hợp nào được áp dụng biện pháp Khiển trách; Hòa giải tại cộng đồng; chỉ có 10 trường hợp được áp dụng biện pháp Giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Thực tế này, xuất phát từ việc hoài nghi của các cơ quan tiến hành tố tụng khi áp dụng chế tài này thấy cơ chế thi hành không hiệu quả, nên thường áp dụng biện pháp cải tạo không giam giữ, phạt tù cho hưởng án treo.

Mục đích của quy định này sẽ tạo điều kiện, động lực cho người chưa thành niên hoàn thiện, cải tạo ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, trở thành công dân có ích cho xã hội. Các hậu quả có thể xảy ra nếu không tuân thủ: (1) Bị áp dụng biện pháp thi hành án tạm thời; (2) Tăng thời hạn xử lý chuyển hướng; (3) Tiếp tục bị truy tố, xét xử theo thủ tục tố tụng tư pháp.

Trường hợp tuân thủ biện pháp xử lý chuyển hướng thì được xem xét giảm thời hạn xử lý chuyển hướng; cấp chứng chỉ chấp hành xong biện pháp xử lý chuyển hướng và miễn trách nhiệm hình sự, không bị tiếp tục bị truy tố, xét xử theo thủ tục tố tụng tư pháp.

Ngoài 03 biện pháp xử lý chuyển hướng hiện hành là: Khiển trách; Hòa giải tại cộng đồng; Giáo dục tại xã, phường, thị trấn, Luật này sẽ nghiên cứu, bổ sung các biện pháp mới như: Bắt buộc đi học; Đặt dưới sự giám sát và có hướng dẫn; Cấm đến hoặc xuất hiện thường xuyên tại một địa điểm; Lao động công ích.

+ Về hình phạt: Bỏ 02 hình phạt Cảnh cáo; Phạt tiền. Không coi biện pháp Đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp tư pháp mà thuộc một loại hình phạt.

Người chưa thành niên, vi phạm pháp luật hình sự đã thiết lập cơ chế xử lý chuyển hướng, do đó các hình phạt chính Cảnh cáo, Phạt tiền là không cần thiết. Mặt khác, bản chất của hình phạt Cảnh cáo gần như có sự tương đồng với biện pháp chuyển hướng “Khiển trách” quy định tại Điều 93 của Bộ luật Hình sự. Bên cạnh đó, việc loại bỏ 02 hình phạt này, sẽ tránh được sự chồng lấn với chế tài xử lý vi phạm hành chính Cảnh cáo, Phạt tiền quy định tại Điều 135 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Theo đó, các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên, bao gồm: (1) Cải tạo không giam giữ; (2) Đưa vào trường giáo dưỡng; (3) Tù có thời hạn.

Đánh giá tác động của chính sách: Khi thu hút nội dung nêu trên và sửa đổi những hạn chế, bất cập của Bộ luật Hình sự và bổ sung một số nội dung mới vào đạo luật này sẽ tác động đến Chương XII, Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, tác động này không phá vỡ kết cấu, nội dung cũng như hiệu lực của Bộ luật Hình sự. Bộ luật Hình sự vẫn quy định phần các tội phạm cụ thể, Luật Tư pháp người chưa thành niên chỉ quy định những nội dung có tính nguyên tắc, tính đặc thù dành riêng cho người chưa thành niên và bãi bỏ Chương XII của Bộ luật Hình sự.

2.3. Tư pháp hình sự về trình tự, thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên là người bị buộc tội; bị hại, người làm chứng, đương sự trong vụ án hình sự:

Hiện nay, trình tự, thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên được quy định bởi Bộ luật Tố tụng hình sự, cụ thể tại Chương XXVIII “Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi” thuộc Phần thứ bảy “Thủ tục đặc biệt”, gồm 18 điều (từ Điều 413 đến Điều 430).

Theo khuyến nghị của Unicef, các chuyên gia quốc tế và Việt Nam, trên cơ sở tổng kết thực tiễn thời gian qua thấy rằng, quy định như Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành là cách tiếp cận truyền thống của các quốc gia quy định một chương riêng về xử lý người chưa thành niên trong đạo luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không hiệu quả vì nó chỉ đưa ra những điều chỉnh không đáng kể đối với các hệ thống và quy trình vốn được thiết kế chủ yếu dành cho người trưởng thành. Trong khi đó, người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần, nên họ không thể tự bảo vệ mình một cách tốt nhất trước bất kỳ sự xâm hại nào. Theo đó, Luật Tư pháp người chưa thành niên nội dung này sẽ điều chỉnh các vấn đề như sau:

- Thiết lập quy trình, thủ tục tố tụng tư pháp người chưa thành niên thân thiện “khép kín” từ giai đoạn điều tra, truy tố đến xét xử

+ Phạm vi: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên được áp dụng theo quy định của Luật này, đồng thời theo quy định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự không trái với quy định của Luật này.

+ Kết cấu: Trên cơ sở thu hút Phần thứ bảy của Bộ luật Tố tụng hình sự và nghiên cứu, học hỏi một số kinh nghiệm của một số quốc gia, quy trình thủ tục, tố tụng thiết kế theo hướng: (1) Quy định chung; (2) Khởi tố, điều tra, truy tố; (3) Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng, đương sự; (4) Xét xử.

Nội dung các mục (1), (2), (3), (4) chỉ điều chỉnh, bổ sung các quy định liên quan đến đặc thù riêng cho người chưa thành niên.

+ Một số nội dung mới cần nghiên cứu, bổ sung:

 * Nghiên cứu, cơ chế cho phép cơ quan công tố được quyền lựa chọn truy tố “tùy nghi”. Nếu theo mức án thử thách khi bị can đồng ý tham gia chương trình giáo dục thử thách, sẽ được cân nhắc mức án đề xuất chỉ bằng ½ mức án theo quy định. Trường hợp, bị can không đồng ý tham gia chương trình sẽ truy tố theo mức án quy định.

* Nghiên cứu, bổ sung chế định bồi thường theo hướng quy định cụ thể các nguyên tắc, tiêu chí cần xem xét khi quyết định bồi thường; Yêu cầu bồi thường không chỉ những tổn thất về vật chất, tinh thần mà cả các chi phí hòa nhập xã hội, điều trị y tế, chăm sóc sức khỏe tâm thần và dịch vụ pháp lý; Các thủ tục bảo đảm thực thi quyết định bồi thường; Thành lập quỹ bồi thường thiệt hại.

* Đổi mới thủ tục xét xử, theo đó nghiên cứu quy định về thủ tục xét xử gồm 02 giai đoạn: (1) Phiên tòa định tội danh và xem xét áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng; (2) Phiên tòa quyết định hình phạt. Giữa 02 giai đoạn này là thời gian thử thách.

* Nghiên cứu chuyên môn hóa hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại tất cả các giai đoạn điều tra, truy tố mà không chỉ dừng lại ở giai đoạn xét xử như hiện hành. Quy định các tiêu chuẩn về trình độ, kiến thức chuyên nghiệp về người chưa thành niên của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Luật sư... khi tham gia quá trình tố tụng về người chưa thành niên.

* Nghiên cứu thiết lập cơ quan điều phối quốc gia về tư pháp người chưa thành niên, theo một trong ba hướng: (1) Giao cho một bộ chủ trì; (2) Lập Ủy ban quốc gia về trẻ em; (3) Lập Ủy ban điều phối liên ngành. Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan điều phối là: (a) Chỉ đạo xây dựng chiếc lược cải cách tư pháp người chưa thành niên; (b) Phối hợp thực hiện các sáng kiến và nội dung cải cách; (c) Giám sát hiệu quả hoạt động của hệ thống tư pháp người chưa thành niên và việc thực thi luật pháp và chính sách; (d) Phối hợp đào tạo cán bộ cho các cơ quan tiến hành tố tụng; (đ) Thu thập, phân tích và nghiên cứu dữ liệu, báo cáo thống kê về người chưa thành niên vi phạm pháp luật.

* Nghiên cứu quy định về vai trò, trách nhiệm của nhân viên công tác xã hội trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên. Kinh nghiệm quốc tế, thấy rằng nhân viên công tác xã hội đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tư pháp người chưa thành niên. Nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp là những người trang bị những kiến thức và kỹ năng chuyên môn phù hợp để thực hiện những điều tra xã hội này. Có nhiều nguyên nhân khiến cho người chưa thành niên thực hiện hành vi vi phạm pháp luật như: Nghèo đói, bạo lực gia đình, bạn bè, sử dụng rượu, bia hoặc ma túy… Thông thường, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán không phải là người được trang bị những kiến thức và kỹ năng cần thiết để xác định chính xác và đầy đủ những yếu tố nguy cơ sâu xa góp phần gây ra vi phạm pháp luật của người chưa thành niên.

Nhiệm vụ, quyền hạn của nhân viên công tác xã hội cần nghiên cứu, định hướng quy định: (a) Nhân viên công tác xã hội cần tham gia khi hỏi cung người chưa thành niên để hỗ trợ tâm lý cho người đó. Nhân viên công tác xã hội cũng có thể tư vấn cho cơ quan tiến hành tố tụng về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thích hợp tại cộng đồng thay thế cho tạm giam;  (b) Nhân viên công tác xã hội tham gia giám sát người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp ngăn chặn không giam giữ, thực hiện hỗ trợ thi hành các biện pháp xử lý chuyển hướng. Nhân viên công tác xã hội sẽ phối hợp với các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác để bảo đảm người chưa thành niên và gia đình nhận được sự hỗ trợ xã hội và hướng dẫn cần thiết để phòng ngừa tái phạm; (c) Nhân viên công tác xã hội thực hiện báo cáo điều tra xã hội về hoàn cảnh và đặc điểm của người chưa thành niên; (d) Nhân viên công tác xã hội tham gia công tác chuẩn bị cho người chưa thành niên trước khi được trả tự do. Nhân viên công tác xã hội phối hợp với các trường giáo dưỡng và cơ sở giam giữ để chuẩn bị cho các em trước khi được trả tự do, giúp các em tiếp tục học văn hóa, học nghề, tìm việc làm. Nhân viên công tác xã hội còn làm việc với các gia đình, hỗ trợ cha mẹ tạo ra môi trường gia đình thuận lợi cho người chưa thành niên khi được trả tự do.

Đánh giá tác động của chính sách: Khi thu hút nội dung nêu trên và sửa đổi những hạn chế, bất cập của Bộ luật Hình sự và bổ sung một số nội dung mới vào đạo luật này sẽ tác động đến Chương XXVIII, Phần thứ bảy “Thủ tục đặc biệt” của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, tác động này cũng giống như đánh giá của Bộ luật Hình sự nêu trên, Luật này bãi bỏ Chương XXVII của Bộ luật Tố tụng hình sự.

2.4. Tư pháp người chưa thành niên về thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng:

Hiện nay, trình tự, thủ tục thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên được điều chỉnh bởi Luật Thi hành án hình sự (có 25 điều)[9], Luật Đặc xá (có 01 điều: Điều 11) và Nghị định số 37/2018/NĐ-CP ngày 10/3/2018 quy định chi tiết thi hành các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, các thiết chế này còn tản mát, thiếu quy định và chưa thể hiện đặc thù của người chưa thành niên. Đặc biệt, việc điều chỉnh thi hành án chuyển hướng trong xử lý hình sự chỉ được điều chỉnh bởi Nghị định của Chính phủ là chưa phù hợp. Do đó, để bảo đảm cơ chế về tư pháp người chưa thành niên hoàn thiện, đồng bộ thì giai đoạn thi hành án cũng phải được điều chỉnh thống nhất bởi luật.

- Phạm vi: Trình tự, thủ tục thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên được áp dụng theo quy định của Luật này, đồng thời theo quy định khác của Luật Thi hành án hình sự không trái với quy định của Luật này.

- Kết cấu: Trên cơ sở thu hút các nội dung rải rác về người chưa thành niên của Luật Thi hành án hình sự, Điều 11 của Luật Đặc xá, Nghị định số 37/2018/NĐ-CP ngày 10/3/2018 và nghiên cứu, học hỏi một số kinh nghiệm của một số quốc gia, thì phần này thiết kế theo hướng: (1) Quy định chung; (2) Thi hành các biện pháp xử lý chuyển hướng; (3) Thi hành án cải tạo không giam giữ, án treo; (4) Thi hành án đưa vào trường giáo dưỡng; (5) Thi hành án phạt tù; (6) Tái hòa nhập cộng đồng (bao gồm giảm án, tha tù, đặc xá, hỗ trợ giám sát sau khi trả tự do).

 -Nội dung:

* Nghiên cứu, bổ sung vai trò của nhân viên công tác xã hội trong thi hành án hình sự;

* Quy định cụ thể trách nhiệm của cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp;

* Quy định về quyền được bảo đảm tham gia học tập hoặc học nghề theo nguyện vọng của người chưa thành niên;

* Cơ sở giam giữ riêng, thân thiện; quyền của người chưa thành niên; tiêu chuẩn tối thiểu để chăm sóc và đối xử với người chưa thành niên (bao gồm điều kiện vật chất và chỗ ở, giáo dục, đào tạo nghề và làm việc; giải trí, chăm sóc y tế, tiếp xúc với gia đình và cộng đồng...).

Đánh giá tác động của chính sách: Khi thu hút nội dung nêu trên và sửa đổi những hạn chế, bất cập của Luật Thi hành án hình sự, Luật Đặc xá và bổ sung một số nội dung mới vào đạo luật này sẽ tác động đến 25 điều cụ thể của Luật Thi hành án hình sự; 01 điều của Luật Đặc xá và Nghị định số 37/2018/NĐ-CP ngày 10/3/2018. Tuy nhiên, tác động này cũng giống như đánh giá của 02 chính sách nêu trên, Luật này bãi bỏ điều luật chưa phù hợp, pháp điển Nghị định số 37/2018/NĐ-CP ngày 10/3/2018.

2.5. Quy định chuyển tiếp:

Việc ban hành đạo luật này, tác động trực tiếp đến ít nhất 04 đạo luật (Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Thi hành án hình sự và Luật Đặc xá), theo đó việc quy định điều khoản chuyển tiếp là bắt buộc. Bên cạnh đó, cũng cần nghiên cứu, bổ sung điều khoản bãi bỏ nội dung áp dụng biện pháp xử lý hành chính (Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Đưa vào trường giáo dưỡng) của Luật Xử lý vi phạm hành chính để bảo đảm hành vi vi phạm của người chưa thành niên được xử lý phù hợp với đúng tính chất, mức độ vi phạm./.


[1] Của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ lao động – Thương binh và Xã hội.

[2] Luật Phòng, chống ma túy; Luật Xử lý vi phạm hành chính; Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam; Luật Thi hành án Hình sự; Luật Đặc xá; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân…

[3]Gồm: (1) Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị 1966 (ICCPR), gia nhập ngày 24/9/1982; (2) Công ước về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa 1966, gia nhập ngày 24/9/1982; (3) Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc 1969, gia nhập ngày 9/6/1982; (4) Công ước về Quyền Trẻ em 1989, ký kết ngày 26/1/1990, phê chuẩn ngày 28/2/1990 và 02 Nghị định thư bổ sung về trẻ em trong xung đột vũ trang (ký kết ngày 8/9/2000, phê chuẩn ngày 20/12/2001) và chống sử dụng trẻ em trong các hoạt động mại dâm và tranh ảnh khiêu dâm (ký kết ngày 8/9/2000, phê chuẩn ngày 20/12/2001); (5) Công ước về Quyền của Người khuyết tật 2006, ký ngày 22/11/2007 và phê chuẩn ngày 5/2/2015; (6) Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người, ký ngày 7/11/2013 và phê chuẩn ngày 5/2/2015.

[4]Gồm quyền sống, được chăm sóc sức khỏe và y tế ở mức cao nhất có thể,...

[5] Gồm quyền được hưởng thụ mọi hình thức giáo dục, có mức sống đầy đủ và điều kiện cho sự phát triển thể chất, tinh thần, trí tuệ, đạo đức, môi trường văn hóa, xã hội của trẻ em,...). (quyền được hưởng thụ mọi hình thức giáo dục, có mức sống đầy đủ và điều kiện cho sự phát triển thể chất, tinh thần, trí tuệ, đạo đức, môi trường văn hóa, xã hội của trẻ em,...

[6] Gồm quyền được bảo vệ khỏi mọi hình thức phân biệt đối xử, lạm dụng hay sự thờ ơ, chống lại mọi sự xâm hại, quyền được bảo vệ của trẻ không có gia đình, không quốc tịch, tị nạn,...

[7]Gồm quyền được tôn trọng ý kiến, được bày tỏ quan điểm, tự do tiếp cận thông tin, lập hội, hội họp hòa bình...

[8] Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp đối với người chưa thành niên, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội 2020, trang 18.`

[9] Các điều 4, 12, 22, 24, 26, 28, 30, 37, 43, 51, 58, 64, 73, 74, 75, 76, 84, 85, 96, 97, 102, 141, 142, 195, 196, 201 của Luật Thi hành án hình sự.

TS. Nguyễn Chí Công, Vụ trưởng Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, Tòa án Nhân dân tối cao

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực