Duy trì mức sinh thay thế - bước ngoặt về chính sách dân số

Thứ sáu, 05/10/2018 15:57
(ĐCSVN) - Để tiếp tục giữ vững được thành quả của công tác dân số với sự phát triển của đất nước, Nghị quyết số 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII chỉ rõ một trong những mục tiêu quan trọng của công tác dân số trong tình hình mới là: Duy trì mức sinh thay thế; tiếp tục cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng nên có 2 con.
Hiện mức sinh thay thế còn chênh lệch đáng kể giữa các vùng. Ảnh: HP

Theo thống kê hết năm 2017, dân số nước ta vào khoảng 93,7 triệu người. Kết quả này là thành công của công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) bởi nếu không thực hiện KHHGĐ, dân số nước ta dự báo sẽ là trên 113 triệu người. Việc tránh sinh hàng chục triệu người theo dự báo là tiền đề tiến tới ổn định về quy mô dân số vào giữa thế kỷ 21. Không những vậy, kết quả công tác DS-KHHGĐ đã làm tăng GDP bình quân đầu người khoảng 2% mỗi năm, góp phần quan trọng vào công cuộc giảm nghèo của đất nước.

Thành công trong công tác DS-KHHGĐ cũng đã góp phần đưa nước ta bước vào thời kỳ dân số vàng với khoảng 63 triệu người trong độ tuổi lao động. Đây là nền tảng cơ hội vàng cho nước ta có thể thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII cũng chỉ rõ: sau 25 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII và các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nổi bật nhất là tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế thành công, cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực, dân số trong độ tuổi lao động tăng mạnh. Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt. Tuổi thọ trung bình tăng nhanh, tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh, tầm vóc, thể lực người Việt Nam có bước cải thiện, dân số đã có sự phân bố hợp lý hơn, gắn với quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh…

Tuy nhiên, Nghị quyết cũng nhận định, công tác dân số còn một số hạn chế nhất định, được đề cập đầu tiên là vấn đề mức sinh thay thế còn chênh lệch đáng kể giữa các vùng. Thực tế cho thấy ở thành phố lớn, kinh tế phát triển thì mức sinh thay thế thấp trong khi đó một số vùng khó khăn thì mức sinh lại cao. Chẳng hạn vùng Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long, bình quân mỗi phụ nữ sinh dưới 2 con, nhưng ở một số tỉnh thuộc khu vực trung du và miền múi phía Bắc là 2,69 con, thậm chí có tỉnh bình quân mỗi bà mẹ sinh trên 3 con như Lai Châu…

Theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế), dự báo đến năm 2049, dân số nước ta sẽ ở mức sinh cao (so với mức sinh hiện nay), quy mô dân số sẽ lớn, mật độ dân số sẽ đông tác động đến mọi thành tựu đạt được trong hàng thập kỷ qua. Thực trạng này sẽ tạo sức ép rất lớn cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước về việc làm, thu nhập, an ninh lương thực, chăm sóc y tế, an ninh năng lượng, môi trường...

Nếu duy trì mức sinh thấp hơn sẽ khó phục hồi mức sinh và khó đưa tỷ số giới tính khi sinh trở lại mức tự nhiên. Trong trường hợp này, thời gian từ  “già hoá dân số” sang “dân số già” càng ngắn lại, tạo ra các sức ép mạnh mẽ về chăm sóc y tế cho người cao tuổi.

Để tiếp tục giữ vững được thành quả của công tác dân số với sự phát triển của đất nước, Nghị quyết số 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII yêu cầu duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), đến năm 2030 quy mô dân số đạt 104 triệu người; giảm 50% chênh lệch mức sinh giữa nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng; 50% số tỉnh đạt mức sinh thay thế. Đồng thời “giảm sinh ở những tỉnh, thành phố có mức sinh còn cao; duy trì kết quả đã đạt được ở những tỉnh, thành phố đạt mức sinh thay thế; thực hiện mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp”.

Thực hiện mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp. Ảnh: HP

Điều này cũng có nghĩa là, chương trình KHHGĐ ở nước ta phải làm sao cho mức sinh giữa các tỉnh, thành phố nhích lại gần nhau, gần mức sinh thay thế. Theo đó, công tác KHHGĐ phải được cụ thể hóa theo từng nhóm tỉnh, thành phố; phải có sự phân biệt về mục tiêu, nội dung truyền thông, phương thức cung cấp phương tiện, dịch vụ tránh thai cho phù hợp với kết quả về mức sinh mà mỗi tỉnh đã đạt được, chứ không đồng nhất như trước đây.

Theo chủ trương mới, KHHGĐ chỉ không còn là “trọng tâm” của chính sách dân số chứ không phải là “từ bỏ KHHGĐ”, nhất là khi 2/3 dân số nước ta sống ở nông thôn, tỷ lệ lao động nông nghiệp cao, nghĩa là vẫn còn cơ sở kinh tế - xã hội để mức sinh có thể tăng lên. Mặt khác, số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ vẫn tăng dần nên nhu cầu KHHGĐ sẽ ngày càng lớn. Vấn đề là cần tổ chức KHHGĐ theo phương thức mới.

Trong Nghị quyết 21-NQ/TW nhấn mạnh tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân số. Thống nhất nhận thức của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận cao trong toàn xã hội về tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách từ tập trung vào kế hoạch hóa gia đình sang giải quyết toàn diện các vấn đề quy mô, cơ cấu, chất lượng, phân bố dân số trong mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Chính vì vậy, Nghị quyết đề cao tính tiên phong, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chủ trương, chính sách về công tác dân số, nhất là sinh đủ 2 con, chú trọng nuôi dạy con tốt, gia đình hạnh phúc, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội./.

L.P (t/h)

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực