Thông tin tại lễ kỷ niệm hưởng ứng Ngày Quốc tế trẻ em gái cho biết, từ cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 1999, tỷ số giới tính khi sinh là 107 bé trai/100 bé gái, 10 năm sau tỷ số này là 110,5 (năm 2009) và tăng lên 113,8 (năm 2013). Đến nay, tỉ số này vẫn dao động xung quanh ngưỡng 112,2 bé trai/100 bé gái. Mất cân bằng giới tính khi sinh có xu hướng tiếp tục tăng và lan rộng cả nông thôn, thành thị và các vùng miền. Cả nước có 55/63 tỉnh, thành phố có tỷ số giới tính khi sinh cao trên 108/100. Riêng tại Thanh Hóa, tỷ số giới tính khi sinh đã tăng từ 111 (năm 2009) lên 114 (năm 2017), cao hơn mức bình chung của cả nước.
Tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta vẫn có chiều hướng gia tăng. Ảnh: HP
Mất cân bằng giới tính khi sinh có nguyên nhân sâu xa từ việc các gia đình mong muốn sinh con trai. Bên cạnh đó, các quan niệm xã hội và tôn giáo đòi hỏi con trai phải gánh vác việc thờ cúng tổ tiên, con trai giúp củng cố địa vị của cha mẹ trong xã hội. Ngoài ra, theo phong tục truyền thống ở nhiều địa phương, chỉ có con trai được kế thừa tài sản của cha mẹ, vị thế của người phụ nữ không được coi trọng... Những điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân, các cặp vợ chồng, gia đình và dòng họ.
Cùng với đó là sự lạm dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật giúp khả năng nhận biết giới tính sớm của thai nhi trong điều kiện khả năng phá thai dễ dàng, chi phí không cao. Vì thế, giải quyết mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn nên rất cần được tiến hành thường xuyên, liên tục và lâu dài.
Mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới cấu trúc dân số Việt Nam trong tương lai, dẫn tới việc dư thừa nam giới trong xã hội. Nếu không có những can thiệp kịp thời, dự báo đến năm 2050, Việt Nam sẽ thiếu từ 2,3 - 4,3 triệu phụ nữ. Mất cân bằng giới tính khi sinh có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng đối với phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và ảnh hưởng tới cuộc sống của phụ nữ, nam giới, gia đình và cộng đồng, sẽ gây ra những hậu quả lâu dài về mặt xã hội và nhân khẩu học như: Gia tăng áp lực buộc các em gái phải kết hôn sớm, làm tăng tệ nạn mại dâm, HIV/AIDS, buôn bán phụ nữ và trẻ em gái, gây bất bình đẳng giới, ly hôn, bất ổn xã hội, sức khỏe sinh sản...
Chính vì những hậu quả kinh tế, xã hội nặng nề của mất cân bằng giới tính khi sinh cho nên Nghị quyết số 21 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) về Công tác dân số trong tình hình mới đã đề ra mục tiêu “đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên”, trước hết, “đến năm 2030, tỷ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống”.
Công tác dân số trong tình hình mới đã đề ra mục tiêu
“đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên”. Ảnh: HP
Để thực hiện được mục tiêu trên, thì việc nâng cao nhận thức, thực hành bình đẳng giới đóng vai trò hết sức quan trọng. Cùng với đó cần có sự vào cuộc, hỗ trợ của các cấp, ngành từ Trung ương đến cơ sở và mọi tầng lớp nhân dân nhằm đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và chuyển đổi hành vi trong triển khai thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới để can thiệp hiệu quả, góp phần kiểm soát và giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trong thời gian tới. Tạo chuyển biến rõ nét ở những vùng có tỉ số giới tính khi sinh cao.
Đồng thời, thúc đẩy mạnh mẽ việc thực thi nghiêm pháp luật về giải quyết mất cân bằng giới tính khi sinh, nghiêm cấm các hành vi hướng dẫn, tư vấn, cung cấp dịch vụ lựa chọn, xác định giới tính trước khi sinh trong các cơ sở y tế, tại cộng đồng và trong toàn xã hội. Đẩy mạnh công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn thấp là nguyên nhân cơ bản của “lựa chọn con trai” dẫn đến mất cân bằng giới tính khi sinh. Vì vậy, đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, hoàn thiện chính sách an sinh xã hội là giải pháp vừa cơ bản, vừa lâu dài nhằm giải quyết tận gốc tình trạng trọng nam hơn nữ. Tiếp tục thúc đẩy tiến bộ xã hội, nhất là thúc đẩy bình đẳng giới, nâng cao quyền năng của phụ nữ, tạo điều kiện và cơ hội cho phụ nữ và bé gái được tiếp cận các cơ hội, nguồn lực để có thể không chỉ thụ hưởng một cuộc sống khỏe mạnh mà còn có cơ hội phát triển, đóng góp cho gia đình và xã hội.
Mặt khác, cần hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, để người cao tuổi nói chung và người cao tuổi có hai con gái yên tâm khi tuổi già, như: chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người cao tuổi; hỗ trợ chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng; giáo dục thái độ mọi người, con trai, cũng như con gái đều có trách nhiệm với cha mẹ một cách bình đẳng…/.