Yên Bái phấn đấu đến năm 2020 giảm tổng tỷ suất sinh
(số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ) còn dưới 2,1. (Ảnh:baoyenbai.com.vn)
Đó là những mục tiêu cụ thể được tỉnh Yên Bái xác định trong kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới.
Thực hiện Nghị quyết số 21, tỉnh Yên Bái đã xây dựng kế hoạch trên cơ sở thống nhất nhận thức của cả hệ thống chính trị và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội; chuyển trọng tâm chính sách từ tập trung vào kế hoạch hóa gia đình sang giải quyết toàn diện các vấn đề quy mô, cơ cấu, phân bổ, chất lượng dân số trong mối quan hệ hữu cơ với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh.
Theo đó, tỉnh Yên Bái xác định mục tiêu cụ thể, đến năm 2030, duy trì vững chắc mức sinh thay thế, nghĩa là bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con; quy mô dân số khoảng 920 nghìn người; giảm trên 70% chênh lệch mức sinh giữa vùng cao và vùng thấp; trên 70% huyện, thị xã, thành phố đạt mức sinh thay thế, giảm 2/3 vị thành niên và thanh niên có thai ngoài ý muốn.
Phấn đấu đạt tỷ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái; 80% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 bệnh bẩm sinh phổ biến; tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi đạt 22%, người từ 65 tuổi trở lên đạt khoảng 11%, tuổi thọ trung bình của người dân đạt 74,5 tuổi.
Tỷ lệ nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 80%; giảm 50% số cặp tảo hôn, cơ bản chấm dứt tình trạng hôn nhân cận huyết thống. Tỷ lệ dân số đô thị đạt trên 40%; 100% dân số được đăng ký, quản lý trong hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư thống nhất trên quy mô toàn tỉnh…
Chú trọng đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, đề cao tính gương mẫu của cán bộ, đảng viên, người có uy tín trong đồng bào dân tộc, khích lệ nhân rộng các điển hình, mô hình trong cộng đồng được xem là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện hiệu quả các mục tiêu trên.
Cùng với đó, tiếp tục thực hiện cuộc vận động sinh ít con, giảm thiểu tảo hôn và tình trạng hôn nhân cận huyết thống tại vùng cao, vùng đồng bào dân tộc. Duy trì vững chắc kết quả công tác dân số tại vùng thấp, thành phố, thị xã.
Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh, tập trung địa bàn có điều kiện dân trí, kinh tế cao, có điều kiện tiếp cận thông tin, dịch vụ lựa chọn giới tính trước sinh. Phát triển mạng lưới, mở rộng và nâng cao chất lượng các dịch vụ về dân số. Trong đó, từng bước phát triển mạng lưới cung cấp các dịch vụ tầm soát, chẩn đoán sớm bệnh tật trước sinh, sơ sinh mà Đề án sàng lọc, chuẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh giai đoạn 2018 – 2020 sẽ được triển khai thực hiện là một trong những thuận lợi để thực hiện các mục tiêu mới về công tác dân số. Tăng cường kết nối, hợp tác với các cơ sở cung cấp dịch vụ ngoài công lập; đổi mới phương thức cung cấp, đưa dịch vụ tới tận người dùng; thúc đẩy cung cấp dịch vụ qua mạng.../.