Mời bạn đọc giao lưu trực tuyến
(ĐCSVN) – Để đáp ứng nguyện vọng của đông đảo bạn đọc trong nước và quốc tế, đồng thời góp phần đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền việc lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức cuộc giao lưu trực tuyến với chủ đề: “Huy động trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng Hiến pháp”. Cuộc giao lưu sẽ diễn ra từ 8h30 đến 11h30, ngày 26/3/2013.
Khách mời buổi giao lưu có:
PGS.TS Lê Minh Thông - Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội, Phó Trưởng Ban biên tập Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; PGS.TS Hoàng Thế Liên, Thứ trưởng Bộ Tư phápcùng một số cơ quan chuyên môn của Bộ Tư pháp, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và đại diện nhiều cơ quan báo chí Trung ương đến dự, đưa tin.
Mục đích của cuộc giao lưu trực tuyến nhằm làm cho mọi người dân thấy rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đóng góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là vô cùng cần thiết, nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong việc xây dựng và hoàn thiện đạo luật gốc. Đồng thời, nêu bật sự quan tâm hưởng ứng, ủng hộ của các bộ, ngành, địa phương và mọi tầng lớp nhân dân tích cực góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Đây cũng là đợt sinh hoạt chính trị - pháp lý quan trọng, có tác dụng tuyên truyền, cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận, nâng cao ý thức, trách nhiệm của nhân dân đối với việc xây dựng Hiến pháp, tôn trọng, thi hành Hiến pháp và pháp luật.
Trong chương trình giao lưu trực tuyến, các vị khách mời sẽ trực tiếp giải đáp các câu hỏi do bạn đọc gửi đến. Ngay từ bây giờ mời bạn đọc gửi câu hỏi tham gia chương trình giao lưu theo địa chỉ:
Ban Chính trị – Xã hội, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam;
Địa chỉ: 381 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội;
Email: banthoisudcs@gmail.com
Điện thoại: 080.48952; 0912032672
Ban Biên tập
Sau đây là nội dung cuộc giao lưu:
|
Các vị khách mời chụp ảnh lưu niệm với Ban Biên tập Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trước khi mở đầu cuộc giao lưu |
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng:
Kính thưa các vị khách mời, kính thưa quý vị bạn đọc!
Thưa toàn thể các đồng chí và các bạn!
Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là một đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, rộng lớn trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nhằm phát huy quyền làm chủ, trí tuệ, tâm huyết của các tầng lớp nhân dân, của các cấp, các ngành. Đồng thời, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với việc sửa đổi Hiến pháp, thi hành Hiến pháp và pháp luật, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đáp ứng nguyện vọng của đông đảo bạn đọc trong nước và quốc tế, đồng thời,góp phần đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền cho việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, hôm nay,Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức cuộc giao lưu trực tuyến với chủ đề: “Huy động trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng Hiến pháp”.
Lời đầu tiên, cho phép tôi thay mặt Ban Biên tập Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng Ban Tổ chức chương trình xin trân trọng cảm ơn các vị khách mời:
PGS.TS Lê Minh Thông - Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội, Phó Trưởng Ban biên tập Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
PGS.TS Hoàng Thế Liên, Thứ trưởng Bộ Tư pháp.
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng: Câu hỏi đầu tiên xin được đặt ra với PGS.TS Lê Minh Thông: Sau gần 3 tháng triển khai việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tới thời điểm này, ông có thể khái quát bước đầu về kết quả triển khai của các bộ, ngành, địa phương. Và trong quá trình triển khai, có những khó khăn, vướng mắc gì cần tháo gỡ?
PGS.TS. Lê Minh Thông:Ngày 23/11/2012, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 38/2012/QH13 tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (Dự thảo sửa đổi Hiến pháp). Ngày 02/01/2013, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến nhân dân. Việc tổ chức lấy ý kiến đều được các cơ quan, tổ chức, địa phương xác định là nhiệm vụ ưu tiên, là đợt sinh hoạt chính trị, pháp lý sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân cũng như cả hệ thống chính trị và đã được triển khai một cách khẩn trương, đồng bộ, rộng khắp, đúng tiến độ theo yêu cầu đặt ra trong Kế hoạch của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp.Theo báo cáo bước đầu của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 27 cơ quan, tổ chức ở Trung ương, các cơ quan, tổ chức, địa phương đã tập trung tổ chức các hội nghị phổ biến, triển khai quán triệt Nghị quyết của Quốc hội và những nội dung của dự thảo sửa đổi Hiến pháp ở cơ quan, tổ chức, đơn vị mình; tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm góp ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp với các hình thức phù hợp điều kiện của từng cơ quan, tổ chức, địa phương; tiến hành tập hợp, tổng hợp ý kiến góp ý của nhân dân gửi đến các cơ quan có thẩm quyền.
Bên cạnh đó, trong quá trình triển khai tổ chức lấy ý kiến, cũng đã phát sinh một số khó khăn, bất cập. Cụ thể là, thời gian lấy ý kiến nhân dân tuy đã được quy định là 03 tháng, song khâu triển khai đến các địa phương lại trùng vào thời gian nghỉ Tết Nguyên đán 2013, do vậy, công tác tổ chức ở một số cơ quan, tổ chức, địa phương (nhất là cấp cơ sở) còn chậm và chưa kịp thời. Các tài liệu phục vụ việc lấy ý kiến nhân dân ở nhiều nơi chưa được in ấn, cung cấp kịp thời; ở một số nơi, các cơ quan, tổ chức và người dân còn gặp khó khăn khi phải tiếp cận tài liệu thông qua mạng internet. Công tác hướng dẫn tập hợp, tổng hợp ý kiến trong giai đoạn đầu còn chưa thống nhất, gây lúng túng cho các địa phương.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng chỉ đạo các địa phương cần in, gửi tài liệu về Hiến phápkèm theo Phiếu xin ý kiến đến từng hộ gia đình để từng người dân tham gia ý kiến. Các cơ quan, tổ chức cần triển khai tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; đối với các tổ chức đảng, đoàn thể; tổ chức lấy ý kiến ở chi bộ đảng, chi đoàn thanh niên, các chi hội cơ sở, khu công nghiệp, trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp,... Cần mở rộng quy mô, thành phần tham dự các hội nghị này; lựa chọn nội dung cụ thể, phù hợp với từng nhóm đối tượng lấy ý kiến để việc góp ý được tập trung, có chất lượng.
Điểm đặc biệt cần lưu ý là, nhân dân vẫn được tiếp tục đóng góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 kể từ sau ngày 31/03/2013 cho đến khi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được trình Quốc hội thông qua (là ngày 30/09/2013).
Các cơ quan, tổ chức, địa phương có trách nhiệm tiếp nhận, tập hợp, tổng hợp đầy đủ, trung thực, khách quan các ý kiến góp ý của nhân dân và gửi về Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Các ý kiến góp ý này sẽ được nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội xem xét, quyết định.
|
PGS.TS Lê Minh Thông (trái) và PGS.TS, Thứ trưởng Hoàng Thế Liên (giữa) trả lời các câu hỏi của bạn đọc |
Phó Tổng Biên tập Nguyễn Văn Thắng:Bạn đọc Trương Văn An - cán bộ hưu trí ở huyện Hưng Hà (Thái Bình) hỏi: Thưa Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên, từ vị trí công tác của mình, xin ông cho biết, những nội dung nào trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 được người dân tham gia ý kiến nhiều nhất?
Thứ trưởng Hoàng Thế Liên: Đến nay, chúng tôi đã nhận được báo cáo của 63 tỉnh, thành và 30 bộ, ngành, các cơ quan Chính phủ. Theo thống kê ban đầu, có gần 15 triệu lượt ý kiến đóng góp của nhân dân vào tất cả các nội dung của Hiến pháp, trong đó có 04 chương được nhân dân đặc biệt quan tâm, gồm: Chương 2 về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân có 1,9 triệu lượt người dân cho ý kiến; Chương 1 về Chế độ chính trị có 1,8 triệu lượt ý kiến; Chương 3 về Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường có 1,9 triệu lượt ý kiến; Chương 5 về Quốc hội có 1,5 triệu lượt ý kiến. Đối với các chương khác, đều có hàng triệu ý kiến người dân tham gia đóng góp.
Phó Tổng Biên tập Nguyễn Văn Thắng:Bạn Nguyễn Huy (Đà Nẵng) hỏi: Được biết, TP. Hồ Chí Minh có phát hàng triệu phiếu xin ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Ông Lê Minh Thông có thể nói rõ cách thức, hiệu quả của việc phát phiếu này như thế nào? Có nên nhân rộng mô hình này?
PGS. TS Nguyễn Minh Thông: Theo tôi, đây là cách làm tốt để đưa Dự thảo Hiến pháp năm 1992 đến mọi thành viên trong gia đình, để các thành viên đọc, tìm hiểu và thể hiện ý kiến của mình, nhưng phải tùy điều kiện cụ thể của từng địa phương.
Việc này là tốt nhưng chúng ta không nên cứng nhắc. Đánh giá việc này có hiệu quả hay không, chúng ta còn phải đang lấy ý kiến và tổng kết. Cá nhân tôi, tôi có niềm tin đây là cách làm hiệu quả, vì nó lấy được ý kiến của từng người dân.
|
|
Phóng viên tác nghiệp tại cuộc giao lưu trực tuyến |
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng: Điều 6 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp quy định nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Xin PGS. TS Lê Minh Thông cho biết, nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước được quy định như thế nào trong Dự thảo Hiến pháp lần này? Bạn đọc có địa chỉlongnguyenhn@gmail.comhỏi.
PGS. TS Lê Minh Thông: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này đã quy định rõ ràng, đầy đủ hơn các phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước (Điều 6) mà không chỉ thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân như Hiến pháp năm 1992. Đây là quy định nhằm bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nội dung này được thể hiện nhất quán trong toàn bộ Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp như: Quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia trưng cầu ý dân, quyền bãi nhiệm đại biểu mà mình đã bầu ra. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ đại diện của mình thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và thông qua các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, việc nhân dân thực hiện hình thức dân chủ trực tiếp hay dân chủ đại diện như thế nào là do luật quy định cụ thể.
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng:Nhiều bạn đọc từ Cao Bằng, Bắc Kạn, Nghệ An nhận xét nội dung của Hiến pháp năm 1946 là ngắn gọn, dễ hiểu. Vậy, PGS. TS Lê Minh Thông có đồng tình với ý kiến của bạn đọc không? Và, trong quá trình xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Ban soạn thảo có kế thừa những giá trị nội dung và kỹ thuật lập hiến nào của bản Hiến pháp 1946 và các bản Hiến pháp khác của nước ta ?
PGS.TS Lê Minh Thông:Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến trên của các bạn đọc. Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp đặc biệt, được xây dựng dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi chúng ta vừa giành độc lập. Đó là bản Hiến pháp rất tiến bộ, thể hiện quyết tâm của đất nước ta trong bối cảnh nước ta vừa giành độc lập, phù hợp với tính chất và đặc điểm lịch sử của nước ta lúc đó. Nhiều bạn đọc mong muốn trở lại với Hiến pháp năm 1946, nhưng xin khẳng định rằng, mỗi thời kỳ lịch sử có một đặc điểm riêng và trở lại như thời kỳ đó là điều không thể.
Các bản Hiến pháp sau này: 1959, 1980, 1992 đều có kế thừa. Tôi khẳng định, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này đều có kế thừa các bản Hiến pháp trước, nhằm làm sâu sắc thêm, toàn diện tư tưởng đã được khẳng định từ Hiến pháp 1946, đó là: Xây dựng chính quyền, trong đó quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng: Về nội dung này, PGS.TS, Thứ trưởng Hoàng Thế Liên có bổ sung gì thêm ?
Thứ trưởng Hoàng Thế Liên :Tôi đồng ý với ý kiến của anh Lê Minh Thông. Mỗi giai đoạn lịch sử có một bản Hiến pháp và nguyên tắc xây dựng Hiến pháp đều cần kế thừa những giá trị tích cực, còn những điểm không hợp lý cần được thay đổi để đảm bảo giá trị trong thực tiễn. Vấn đề chúng ta cần là tìm cách tạo cơ chế để đảm bảo các nội dung dân chủ, cũng như khẳng định giá trị lâu dài của các giá trị tích cực trong quá trình phát triển.
|
Thứ trưởng Hoàng Thế Liên trả lời bạn đọc |
Phó Tổng Biên tập Nguyễn Văn Thắng: Bạn đọc Lê Mạnh Luân, bộ đội đóng quân ở Khánh Hòa hỏi:Ở nước ta, lực lượng vũ trang là công cụ của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều này đã được thể chế hóa như thế nào trong Dự thảo Hiến pháp?
PGS. TS Lê Minh Thông: Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này, Chương 4 về Bảo vệ Tổ quốc, trong đó có nội dung về lực lượng vũ trang gần như kế thừa toàn bộ Hiến pháp hiện hành. Việc tiếp tục khẳng định vai trò của lực lượng vũ trang là kế thừa Điều 12 là một vấn đề cần thiết để khẳng định tính chất, vai trò to lớn của lực lượng vũ trang trong tình hình mới. Một trong những điểm làm rõ hơn trong vấn đề này là tiếp tục khẳng định: lực lượng vũ trang trung thành với Đảng, Tổ quốc, Nhà nước và nhân dân. Điều này xuất phát từ thực tế, Đảng ta là người sáng lập lực lượng vũ trang, lãnh đạo lực lượng vũ trang. Đó là một sự thật lịch sử và tiếp tục sẽ là như vậy. Cho nên, việc khẳng định lực lượng vũ trang trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với Đảng là một điều đương nhiên. Lực lượng vũ trang phục vụ lợi ích của nhân dân, dân tộc và Đảng ta không có lợi ích riêng. Việc lực lượng vũ trang trung thành với Đảng, với nhân dân là thống nhất với nhau.
Lần này, chúng ta làm rõ thêm vai trò lực lượng vũ trang trong tình hình mới, đặc biệt là trong việc thực hiện các nhiệm vụ, cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Hiện nay, thế lực, vị trí, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Chúng ta cũng phải xây dựng lực lượng vũ trang đủ khả năng sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ quốc tế khi có yêu cầu, phù hợp với công ước quốc tế về các vấn đề bảo vệ hòa bình, duy trì an ninh trong khu vực và trên thế giới.
Phó Tổng Biên tập Nguyễn Văn Thắng: Về nội dung này, ý kiến của PGS. TS, Thứ trưởng Hoàng Thế Liên như thế nào?
Thứ trưởng Hoàng Thế Liên: Tôi đồng tình với những nội dung Chương 4 về Bảo vệ Tổ quốc. Trong chương này, có hai điểm quan trọng:
Thứ nhất, khẳng định, bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị ;
Thứ hai, khẳng định, lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành với Đảng.
|
PGS.TS Lê Minh Thông trả lời bạn đọc |
Phó Tổng Biên tập Nguyễn Văn Thắng: Bạn đọc Nguyễn Minh Huyền (nghiên cứu sinh tại ĐH Melbourne, Australia) nêu câu hỏi: Đề nghị PGS. TS Lê Minh Thông cho biết, có những điểm gì mới của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 quy định về quyền con người và các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân?
PGS. TS. Lê Minh Thông: Dự thảo Chương 2 được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương 5 về Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân của Hiến pháp năm 1992 thành Chương: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” để khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp và đặt sau Chương 1 về Chế độ chính trị. Dự thảo chuyển các quy định liên quan đến quyền con người, quyền công dân tại các chương khác về Chương này, làm rõ nội dung quyền con người, quyền công dân, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; quy định quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Đồng thời, sắp xếp lại các điều theo các nhóm quyền để bảo đảm tính thống nhất giữa quyền con người và quyền công dân, nâng cao hơn nữa tính khả thi của các quy định này.
Cùng với việc tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992, dự thảo Hiến pháp sửa đổi đã bổ sung một số quyền mới là kết quả của quá trình đổi mới 25 năm qua ở nước ta, phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Đó là quyền sống (Điều 21), quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (Điều 22), quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư (Điều 23), quyền kết hôn và ly hôn (Điều 39), quyền hưởng thụ các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp cận các giá trị văn hóa (Điều 44), quyền xác định dân tộc (Điều 45), quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 46),... Dự thảo quy định quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng (Điều 15).
Qua tổng hợp bước đầu ý kiến đóng góp của nhân dân về Chương này, có thể thấy rằng, hầu hết ý kiến đều đồng tình với các quy định của Dự thảo; đánh giá cao các quy định về quyền con người vì đã thể hiện và nhấn mạnh vai trò của Hiến pháp trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, thể hiện được nội dung các Công ước quốc tế về quyền con người mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Cũng có ý kiến cho rằng, quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Dự thảo cần được làm rõ hơn nữa, cũng như các trường hợp quy định về giới hạn quyền con người, quyền công dân. Các nội dung này sẽ được Ban biên tập và Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp nghiên cứu để tham mưu với Quốc hội trong việc thể hiện cụ thể các quy định tại Chương 2 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng: Một số vấn đề đang được dư luận xã hội quan tâm là việc quy định về các thành phần kinh tế và chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Trong Dự thảo Hiến pháp năm 1992, vấn đề này được đề cập như thế nào và tại sao lại quy định như vậy ? Bạn đọc Nguyễn Minh Tâm (ở Tân Phước, Tiền Giang) hỏi ?
PGS. TS Lê Minh Thông: Điểm mới trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này là các quy định của Hiến pháp chỉ dừng ở mức khái quát, xác định về mặt nguyên tắc: "Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâi dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật". Các quy định trong dự thảo Hiến pháp không nêu cụ thể vai trò của từng thành phần kinh tế như trong Hiến pháp năm 1992, trong đó kinh tế nhà nước được xác định là giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Chúng tôi cho rằng, xây dựng “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là quan điểm nhất quán của Nhà nước ta từ Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đến nay. Việc dự thảo sửa đổi Hiến pháp chỉ quy định một cách khái quát mà không quy định cụ thể các thành phần kinh tế và vai trò của từng thành phần không có nghĩa là Việt Nam xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa, mà là sự thể chế hóa nội dung của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); bảo đảm nguyên tắc tôn trọng sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; tạo cơ sở hiến định cho sự vận động, phát triển của nền kinh tế trong tương lai, bảo đảm tính ổn định lâu dài của các quy định của Hiến pháp.
Trên thực tế, các thành phần kinh tế là yếu tố luôn vận động, phát triển và trong mỗi giai đoạn phát triển lại có sự chuyển hóa, đan xen lẫn nhau. Do vậy, việc xác định cụ thể tên gọi cũng như vai trò của từng thành phần kinh tế sẽ được xác định trong các luật và các chính sách cụ thể của Nhà nước để phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Trong quá trình đó, vấn đề đặt ra không phải là xoá bỏ hay ưu tiên thành phần kinh tế này hay thành phần kinh tế khác, mà điều quan trọng là phải nắm vững bản chất của từng thành phần và sử dụng chúng đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Để bảo đảm nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong quá trình vận động vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác, thành phần kinh tế nhà nước phải tự vươn lên, làm sao để cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng cho chế độ xã hội chủ nghĩa.
Liên quan đến vấn đề chế độ sở hữu đối với đất đai, quan điểm thống nhất, xuyên suốt từ Hiến pháp năm 1980 đến nay là “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”. Đây là quy định nhằm bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với đất đai, nguồn tư liệu sản xuất quan trọng và lãnh thổ thiêng liêng của quốc gia; đồng thời hoàn toàn phù hợp với thực tiễn quản lý đất đai của Việt Nam.
Điểm mới cơ bản trong lần sửa đổi Hiến pháp này là việc hiến định nguyên tắc “quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ”. Điều này vừa thể hiện thái độ tôn trọng, bảo vệ của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa đối với quyền cơ bản của công dân, vừa tạo cơ sở pháp lý vững chắc để tiếp tục phòng, chống và xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm trong thực hiện pháp luật về đất đai.
Cũng liên quan đến vấn đề này, qua quá trình tham gia ý kiến của nhân dân, có một số ý kiến cho rằng nếu quy định trong Hiến pháp việc Nhà nước thu hồi đất để phục vụ mục tiêu kinh tế - xã hội thì rất dễ dẫn đến tùy tiện, lạm quyền; mâu thuẫn với việc bảo hộ quyền tài sản của người dân về đất đai. Đây cũng là một ý kiến cần được tiếp tục nghiên cứu để có phương án hợp lý trình Quốc hội xem xét quyết định.
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng: Xin cảm ơn PGS. TS Lê Minh Thông. Vẫn về nội dung này, xin Thứ trưởng Bộ Tư pháp phân tích thêm, vì sao chúng ta không hiến định vấn đề sở hữu tư nhân về đất đai? Bạn đọc ở địa chỉthanhtra213@gmail.com hỏi?
Thứ trưởng Hoàng Thế Liên: Trước hết, như tôi nói, chương về kinh tế cũng là một chương được nhân dân rất quan tâm. Trong đó, quan tâm ở hai vấn đề lớn: Một là, quy định về vấn đề các thành phần kinh tế; hai là, vấn đề đất đai.
Trước hết, về vấn đề thành phần kinh tế, chúng ta thấy bây giờ vẫn nói nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu. Và chúng ta khẳng định, các thành phần kinh tế là bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân. Tôi cho rằng, dừng lại thế là đúng. Bởi trong quá trình thay đổi nhanh chóng của sự phát triển kinh tế, có thể còn hình thành các thành phần kinh tế nữa. Và nếu liệt kê các thành phần kinh tế, chắc chắn Hiến pháp sẽ bị lạc hậu với thời cuộc.
Thứ hai là, khi chúng ta hội nhập kinh tế sâu rộng và đặc biệt khi trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì một trong những yêu cầu rất lớn đặt ra là kinh tế phải bình đẳng; kinh tế là phải không phân biệt đối xử, có như thế mới cạnh tranh lành mạnh được. Chính vì vậy, việc khẳng định vị trí của từng thành phần kinh tế là một trong những yếu tố có thể đi ngược với nguyên tắc của kinh tế thị trường - là nguyên tắc sân chơi chung của kinh tế thế giới, nên ta bỏ việc đó.
Về sở hữu đất đai, trong quá trình đóng góp có 3 loại ý kiến. Ý kiến thứ nhất, đồng tình với Hiến pháp - đó là ý kiến đa số. Ý kiến thứ hai, đề nghị tiếp tục đa dạng hóa các hình thức sở hữu đối với đất đai (vừa có sở hữu toàn dân, vừa có sở hữu cộng đồng và sở hữu tư nhân). Ý kiến thứ ba, đồng tình với việc tiếp tục khẳng định sở hữu toàn dân về đất đai, nhưng đề nghị, đối với đất ở và đất nông nghiệp thì có chế độ thật đặc biệt, bảo đảm tính lâu dài và ổn định cho những người có đất ở, nông dân có đất sản xuất. Đây là những ý kiến trân trọng để chúng ta suy nghĩ.
Riêng tôi thấy, sở dĩ chúng ta tiếp tục khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân hoàn toàn dựa trên hai tổng kết rất lớn. Tổng kết thứ nhất là tổng kết của Đảng. Thứ hai là tổng kết của Chính phủ để xây dựng Luật Đất đai mới mà hiện nay chúng ta đang thảo luận.
Trong hai tổng kết này đều khẳng định một ý là những bất cập, bức xúc trong đất đai hiện nay không phải xuất phát từ chế định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, mà là một quá trình chúng ta xây dựng pháp luật để cụ thể hóa nguyên tắc đó chưa đầy đủ, có nhiều điểm còn bất cập. Chính vì vậy, hệ lụy đến công tác quản lý đất đai còn có nhiều yếu kém. Chính hai vấn đề này phát sinh nhiều vấn đề bất cập trong quản lý đất đai, gây bức xúc trong xã hội. Lần này, chúng ta phải thấy bất cập ở đâu, khuyết điểm ở đâu thì sửa chữa ở đó. Còn việc khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân là một khẳng định từ năm 1980 và hiện giờ, chúng ta thấy vẫn đúng, do đó tiếp tục khẳng định.
Một ý kiến lập luận, tôi cho rằng rất đáng chú ý: Từ năm 1980, chúng ta đã khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Đặc biệt, đất đai trải qua một sự biến động rất phức tạp mà nếu bây giờ chúng ta thừa nhận đất đai thuộc sở hữu tư nhân thì sẽ gây tranh chấp xã hội khó có thể giải quyết được. Đấy là những ý kiến của nhân dân về vấn đề đất đai mà chúng tôi tập hợp được.
Phó Tống biên tập Nguyễn Văn Thắng: Bạn đọc Lê Tiến Đạt (người Việt kinh doanh tại Moscow, Nga) hỏi: Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 không chỉ là sự kiện quan trọng đối với nhân dân ở trong nước, mà còn thu hút sự quan tâm của đông đảo người Việt Nam đang sinh sống, học tập, công tác ở nước ngoài. Xin PGS. TS Lê Minh Thông cho biết, đồng bào ta ở nước ngoài tập trung đóng góp những nội dung gì vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 và việc góp ý thông qua những hình thức nào?
PGS. TS Lê Minh Thông: Đóng góp ý kiến vào nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 không chỉ thu hút người dân trong nước mà còn nhận được sự quan tâm đặc biệt của kiều bào ta ở nước ngoài. Qua thông tin của Ban biên tập, chúng tôi cũng nhận được không ít những đóng góp của kiều bào ta ở nước ngoài đóng góp ý kiến các nội dung của Dự thảo.
Kiều bào ta ở nước ngoài cũng như học sinh, sinh viên Việt Nam đang học tập ở nước ngoài về cơ bản cũng quan tâm đến hầu hết các nội dung trong Dự thảo và biểu lộ sự đồng tình cao tới các nội dung này. Bên cạnh đó, kiều bào cũng đặc biệt quan tâm tới một số nội dung như:Thứ nhất, việc thể chế, hiến định hóa vị trí, vai trò của cộng động của người Việt Nam ở nước ngoài trong Hiến pháp như thế nào? Hiến định làm thế nào đó để có thể khẳng định một cách mạnh mẽ người Việt Nam định cư, học tập ở nước ngoài là một bộ phận máu thịt của dân tộc Việt Nam, để làm sao gắn bó người Việt Nam ở nước ngoài với người Việt Nam ở trong nước thành một khối thống nhất;thứ hai, có thể phát huy được những đóng góp của người Việt Nam ở nước ngoài đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thứ ba, tạo điều kiện cho kiều bào ta học tập và sinh sống ở nước ngoài tiếp tục giữ mối liên hệ mật thiết với người dân trong nước và gìn giữ, phát huy được truyền thống văn hóa của Việt Nam, bản sắc văn hóa của Việt Nam. Trong bản Dự thảo Hiến pháp đã thể hiện được tinh thần đó và đồng bào ta ở nước ngoài có đề nghị, cần quán triệt câu chữ, cũng như trách nhiệm của Nhà nước chúng ta trong việc hỗ trợ đồng bào ta ở nước ngoài, để thực sự thể hiện rõ tính đại đoàn kết toàn dân tộc, thể hiện rõ tính đại đoàn kết giữa người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài, góp phần xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng:Nhiều bạn đọc từ TP. Hà Nội, Cần Thơ đặt câu hỏi: Thời gian lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 có hạn. Làm thế nào để nhân dân biết được rằng, ý kiến xác đáng của mình đã được Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 tiếp thu?
PGS. TS Lê Minh Thông: Đây cũng là vấn đề Ban Biên tập soạn thảo Hiến pháp và người dân rất quan tâm. Mục tiêu của chúng ta lấy ý kiến sửa đổi Hiến pháp là muốn lắng nghe ý chí, nguyện vọng và tiếng nói của nhân dân. Vì vậy, việc tập hợp chính xác, trung thực các ý kiến của nhân dân là hết sức quan trọng.
Chúng ta đã triển khai hàng loạt hoạt động nhằm tập hợp, tổng hợp các ý kiến góp ý bằng các phương thức khác nhau được tổ chức từ cơ sở đến cấp tỉnh, thành, cấp Trung ương, Chúng tôi cũng khẳng định rằng, Ban biên tập sẽ cố gắng đến mức tối đa với sự hỗ trợ của Chính phủ để có thể tập hợp được đầy đủ và chính xác các ý kiến góp ý của nhân dân. Việc tiếp thu ý kiến của nhân dân sẽ được thực hiện nghiêm túc, công khai, minh bạch; sẽ được phân loại theo từng nhóm vấn đề, đương nhiên sẽ không thể chi tiết cụ thể được.
Chúng tôi sẽ áp dụng phương pháp hệ thống từng nhóm vấn đề, nhóm ý kiến. Những ý kiến nào đồng ý hoàn toàn với Dự thảo sẽ gộp thành một nhóm; những ý kiến nào đồng ý một phần, có sự điều chỉnh, sửa đổi sẽ thành một nhóm, kể cả câu chữ, cách thể hiện; những ý kiến nào bổ sung mới và những ý kiến nào đề nghị không đưa vào Hiến pháp sẽ được tập hợp lại.
Chúng tôi sẽ tập hợp tối đa thành bốn nhóm như vậy và đối với từng nhóm vấn đề đó, sẽ nghiên cứu để tiếp thu những đề xuất, ý kiến phù hợp với tính chất, đặc điểm chế độ ta, Nhà nước ta, của nền kinh tế nước ta; tạo điều kiện cho khả năng phát triển của đất nước ta một cách bền vững trong những năm tiếp theo. Những ý kiến nào xem là chưa phù hợp với tình hình hiện nay, có thể được nghiên cứu giải trình, còn những ý kiến nào trái với ý chí, nguyện vọng của đại đa số nhân dân thì chúng ta sẽ bác bỏ. Tất cả những vấn đề này sẽ được làm một cách công khai, công bố minh bạch. Người dân sẽ được biết thông qua bản giải trình của Ban soạn thảo, công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.
|
Toàn cảnh buổi giao lưu trực tuyến |
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng: Bạn Ngô Văn Sơn (TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh) nêu câu hỏi: Trong công tác tham mưu giúp Chính phủ, các Bộ, ngành, HĐND và UBND cấp tỉnh tổng kết thi hành và nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, Bộ Tư pháp có vai trò rất quan trọng là Tổ trưởng Tổ giúp việc Ban Chỉ đạo Tổng kết thi hành Hiến pháp 1992. Xin Thứ trưởng cho biết những công việc của Bộ Tư pháp thời gian qua?
Thứ trưởng Hoàng Thế Liên: Với tư cách là cơ quan thường trực, Bộ Tư pháp đã có những đóng góp quan trọng. Bộ Tư pháp đã tổ chức thành công Hội nghị tổng kết công tác 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992; trong đó, đánh giá thực tiễn qua 20 năm thực hiện Hiến pháp và những bất cập, đề xuất về hệ thống, giải pháp để sửa đổi Hiến pháp.
Sau khi nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được công bố và có Nghị quyết 38 của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 136 QĐ/TTg ngày 11/01/2013 về việc tổ chức lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 từ tham mưu của Bộ Tư pháp.
Trong Bộ Tư pháp, Bộ trưởng đã thành lập 3 nhóm công tác: Nhóm 1: Hướng dẫn công tác kiểm tra các bộ, ngành, địa phương trong việc lấy ý kiến nhân dân. Các cán bộ đi công tác đã tiến hành các cuộc trao đổi nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của các địa phương; tổ chức các đoàn kiểm tra đến các địa phương để nắm tình hình, báo cáo Chính phủ kịp thời.
Nhóm 2: Tổ chức lấy ý kiến như các bộ, ngành khác.
Nhóm 3: Tiếp nhận, tổng hợp và xây dựng báo cáo trình Chính phủ về ý kiến nhân dân xây dựng góp ý nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Hôm qua, ngày 25/3, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị mời đại diện các bộ, ngành, địa phương về đóng góp ý kiến vào nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp do Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chủ trì. Vai trò, những đóng góp của Bộ Tư pháp đã được ghi nhận tại Hội nghị này.
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng: Bạn Hà Trang (Học viện Tài chính) hỏi:Liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, nhiều ý kiến cho rằng, Hiến pháp cần quy định rõ các vấn đề mà Quốc hội phải đưa ra trưng cầu ý dân? Quan điểm của PGS. TS Lê Minh Thông về vấn đề này ?
PGS.TS Lê Minh Thông: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này có 4 điều quy định về trưng cầu ý dân – đây là hình thức dân chủ trực tiếp điển hình để người dân có thể tham gia vào quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Cụ thể, Ðiều 30 của Dự thảo quy định: "Công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý"; Khoản 15 Ðiều 75 quy định Quốc hội "quyết định trưng cầu dân ý"; Ðiều 79 quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ "tổ chức trưng cầu dân ý theo quyết định của Quốc hội" và Ðiều 124 quy định: "Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu dân ý về Hiến pháp do Quốc hội quyết định".
Ðây không phải lần đầu Hiến pháp nước ta ghi nhận về vấn đề trưng cầu dân ý. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp 1946), tại Ðiều 21 có quy định: "Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc có quan hệ đến vận mệnh quốc gia...", Ðiều 32 quy định: "Những việc có quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba số nghị viên đồng ý...". Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 cũng đều có quy định về việc trưng cầu ý dân.
Tuy nhiên, cho đến nay chúng ta chưa có cơ chế thực thi, nên những quy định của Hiến pháp chưa được thực hiện trong thực tế. Ở đây cần nói rõ, trưng cầu ý dân khác với hỏi ý kiến nhân dân. Hỏi ý kiến mang tính chất đóng góp xây dựng, còn trưng cầu ý dân là việc toàn dân biểu quyết, mang tính chất quyết định.
Hiện nay, Quốc hội đã đưa dự án luật trưng cầu ý dân vào Chương trình xây dựng luật, pháp luật của Quốc hội khóa XIII. Việc xây dựng Luật này là hết sức cần thiết nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện một chế định quan trọng đã được Hiến pháp quy định, thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; các vấn đề trọng đại của đất nước phải được nhân dân xem xét và quyết định.Tuy nhiên, theo chúng tôi, để có cơ sở cho việc soạn thảo Luật trưng cầu ý dân thì trong Hiến pháp cũng cần khẳng định rõ một số vấn đề mang tính nguyên tắc như những loại việc nào nhất thiết cần được đưa ra trưng cầu ý dân, giá trị của việc trưng cầu ý dân. Trên cơ sở đó, Luật sẽ tiếp tục cụ thể hóa quy trình, cách thức để thực hiện việc tổ chức trưng cầu ý dân.
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng: Luật sư Đinh Bá Tuấn (Hà Nội) nêu ý kiến: Được biết, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 48 về Chiến lược cải cách tư pháp, trong đó đưa ra chủ trương là xây dựng Luật trưng cầu dân ý. Vậy xin PGS. TS, Thứ trưởng Hoàng Thế Liên cho biết khả năng đến bao giờ nước ta chính thức sẽ có đạo luật quan trọng này?
Thứ trưởng Hoàng Thế Liên: Tôi đồng tình với việc trưng cầu ý dân trước những vấn đề hệ trọng của quốc gia. Đây là cơ sở hiến định để luật được cụ thể hóa. Nếu chỉ nói nhân dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân, thì như vậy, nhân dân hoàn toàn đứng ở thế bị động và đó không phải là quyền. Theo tôi, phải đặt ngược lại là nhân dân có quyền trưng cầu dân ý đối với những vấn đề trọng đại của quốc gia. Cũng từ lý do đó, chúng ta thấy rằng, Chính phủ chưa xây dựng được Luật trưng cầu dân ý.
Tôi cũng thông tin với các bạn rằng, Luật này không giao cho Chính phủ xây dựng mà giao cho Hội Luật gia Việt Nam. Hội Luật gia Việt Nam đã rất công phu khi xây dựng, nhưng do cơ sở hiến định chưa có dẫn đến sự lúng túng nhất định. Vì vậy, luật này chưa thể trình Quốc hội xem xét, thông qua. Nếu chúng ta quy định trong Hiến pháp rõ về vấn đề này thì sẽ xây dựng Luật trưng cầu dân ý tốt hơn.
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng: Thưa PGS. TS Lê Minh Thông, dường như ông vẫn muốn tranh luận về vấn đề này?
PGS.TS. Lê Minh Thông: Tôi nghĩ, việc trưng cầu dân ý là vấn đề đã được quy định trong Hiến pháp. Tất cả các bản Hiến pháp của chúng ta từ trước đến nay đều quy định về quyền trưng cầu dân ý. Chỉ có vấn đề kỹ thuật thể hiện dưới dạng này dạng khác, thể hiện ở câu chữ, nhưng tất cả các bản Hiến pháp từ năm 1946 đến nay đều nói về quyền trưng cầu dân ý. Đáng lưu ý là ở chỗ, những vấn đề nào là vấn đề trọng đại cần trưng cầu dân ý. Đây là điều chúng ta cần bàn.
Chúng ta có cơ sở hiến định của việc trưng cầu dân ý rồi. Quan trọng là cần quy định rõ vấn đề nào trong Hiến pháp buộc phải trưng cầu dân ý. Nếu được thế thì rất là tốt để xây dựng Luật Công dân, Luật trưng cầu dân ý để nhân dân theo dõi, giám sát.
Trong thực tế, chúng ta chưa lần nào tổ chức trưng cầu ý dân cả. Chúng ta đã tổ chức lấy ý kiến nhân dân, mà thực chất lấy ý kiến nhân dân cũng là trưng cầu dân ý, thông qua lấy ý kiến nhân dân thì ý chí, nguyện vọng của nhân dân sẽ được tiếp thu, lắng nghe. Bằng chứng sinh động là lần này, chúng ta tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 với quy mô lớn và cách làm cũng rất sáng tạo - phát phiếu đến từng hộ gia đình, từng cá nhân để lấy ý kiến về nội dung, lấy đúng ý kiến nhân dân chứ không nhất thiết phải trưng cầu. Ở đây không có gì khác nhau cả, khác nhau chỉ ở chỗ anh Liên đã cụ thể hóa câu chữ. Ta cứ nên quy định như vậy rồi cụ thể hóa cho chính xác hơn.
Phó Tổng Biên tập Nguyễn Văn Thắng:Hình như Thứ trưởng Hoàng Thế Liên vẫn tiếp tục có ý kiến về vấn đề này?
Thứ trưởng Hoàng Thế Liên: Vâng, tôi nghĩ thế này, Hiến pháp là đạo luật gốc, có sức sống lâu dài. Lịch sử cho thấy, Hiến pháp 10 năm, 20 năm mới sửa đổi. Đây là vấn đề dân chủ, thiết thực và vô cùng quan trọng hiện nay.
Tôi muốn nói rằng, lần này sửa đổi Hiến pháp, tôi đồng tình là lấy ý kiến nhân dân, 3 tháng tập trung và tiếp tục lấy ý kiến nhân dân đến tháng 9. Nhưng tới đây, khi sửa đổi Hiến pháp, nhất thiết phải trưng cầu ý dân. Khoảng 5, 6 năm nữa, dân trí phát triển, trình độ và điều kiện của chúng ta đầy đủ như vậy, và đây cũng là nhu cầu thiết thực của nhân dân, tại sao chúng ta không làm?
Một bản Hiến pháp dù được xây dựng bằng cách nào thì cũng đều là bản Hiến pháp của nhân dân, thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân; thông qua bản Hiến pháp để nhân dân xây dựng bộ máy và trao quyền lực cho các cơ quan nhà nước.
Tất nhiên ở hoàn cảnh hiện nay, chúng ta làm như thế này là được, là phù hợp, nhưng tới đây, tôi đề nghị, công dân có quyền trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp và các vấn đề quan trọng khác.
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng: Có lẽ, đây là vấn đề còn phải tiếp tục tranh luận, đóng góp ý kiến cho đến khi Quốc hội xem xét và chính thức thông qua Hiến pháp mới.
|
PGS.TS Lê Minh Thông: Bổ sung nội dung quyền lực vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 để làm cho quyền lực thực sự được thể hiện theo đúng nghĩa là nhân dân ủy quyền |
Phó Tổng Biên tập Nguyễn Văn Thắng: Bạn Nguyễn Văn Mười (Ý Yên, Nam Định) hỏi: Trong bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tại Điều 2 khi nói về Nhà nước pháp quyền XHCN, có bổ sung thêm nội dung về kiểm soát quyền lực, theo đó “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, sự bổ sung như vậy có ý nghĩa gì và sự bổ sung này có ảnh hưởng gì tới các quy định ở phần về tổ chức bộ máy nhà nước?
PGS.TS Lê Minh Thông:Việc bổ sung này xuất phát từ quy định của Cương lĩnh của Đảng, trong vấn đề này mới dừng lại ở chỗ quyền lực Nhà nước là thống nhất, được phân công phối hợp của các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Dự thảo sửa đổi lần này đưa phần kiểm soát quyền lực vào nội dung này. Đây có thể xem là một bước hoàn thiện mới về nguyên tắc tổ chức và đảm bảo quyền lực nhà nước.
Những nguy cơ về hà lạm quyền lực đã có cơ chế để kiểm soát quyền lực, bảo đảm các cơ quan nhà nước thực hiện đúng thẩm quyền của mình mà nhân dân đã ủy quyền. Tuy nhiên, do chúng ta chưa quy định rõ các quy chế thực hiện và trong nhiều trường hợp chưa thực hiện hiệu quả. Lần này, chúng ta bổ sung nội dung quyền lực vào để làm cho quyền lực thực sự được thể hiện theo đúng nghĩa là nhân dân ủy quyền. Về pháp lý, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nhân dân ủy quyền cho các cơ quan nhà nước thực hiện một phần quyền lực của mình. Và quá trình thực hiện quyền lực ấy, nhân dân kiểm soát việc đó nhưng đồng thời tạo sự kiểm soát lẫn nhau bởi sự kiểm soát nội bộ quyền lực là rất hiệu quả.
Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy việc kiểm soát giữa các nhánh quyền lực đã phát huy hiệu quả. Nó là một yếu tố rất quan trọng không thể thiếu, kiểm soát từ bên trong và cả bên ngoài quyền lực tạo đảm bảo quyền lực thực hiện đúng mọi lúc mọi nơi. Việc bổ sung lần này cũng tạo ra một cơ sở chính trị quan trọng để chúng ta hoàn thiện thêm một bước. Hoàn chỉnh lại một số chức năng, thẩm quyền trong thực hiện lập pháp, hành pháp và tư pháp, chỉ rõ cơ quan nào là cơ quan lập pháp... xác định thầm quyền và tạo cơ chế công khai minh bạch các cơ quan kiểm soát lẫn nhau.
Lưu ý việc bổ sung khác nguyên tắc đối trọng trong kiểm soát quyền lực như nhiều nước khác, kiểm soát để hoạt động hiệu quả chứ không phải để đối trọng. Trong tổ chức bộ máy của nước ta không cho phép tạo thế đối trọng làm tê liệt bộ máy như đã xảy ra ở một số quốc gia khác trên thế giới.
Chúng ta có cơ chế và mục tiêu thống nhất, không tạo đối trọng. Có 4 nguyên tắc quan trọng : quyền lực là thống nhất, không thể chia cắt, thống nhất trong toàn bộ máy, toàn quốc giá ; quyền lực phải có phân công QH – lập pháp, CP - hành pháp, Tòa án nhân dân – tư pháp. Lần này chúng ta đã định danh rõ, bên cạnh đó điều chỉnh lại một số chức năng QH, Chủ tịch nước, CP, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân. Dự thảo lần này chúng ta cũng hoàn thiện các thiết chế này và bổ sung thêm. Ví dụ quy định về HĐ HP, HĐ bầu cử quốc gia... Việc đưa 3 thiết chế không chỉ khẳng định tính tối cao bất khả xâm phạm của HP cần phải bảo vệ, là nguyên lý cơ bản của chế độ nhà nước, thể chế hóa mà còn bổ sung quan trọng để hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực bên cạnh cơ chế hiện hành.
Việc bổ sung lần này có ý nghãi lớn, không chỉ thuần túy thể chế hóa cương lĩnh mà tạo ra một sắc thái mới, điều kiện mới mỗi cơ quan nhà nước trong thực hiện lập pháp, hành pháp tư pháp một cách có trật tự, hiệu quả đúng với mục đích mà nhân dân đã giao phó
Phó Tổng Biên tập Nguyễn Văn Thắng: Thưa thứ trưởng, ý kiến của nhiều bạn đọc gửi tới Báo đã rất quan tâm nội dung kiểm soát quyền lực, vậy ông phân tích thêm về vấn đề này?
Thứ trưởng Hoàng Thế Liên:Đây là cơ sở kiểm tra xem chúng ta triển khai thực hiện việc kiểm soát quyền lực. Và nó cũng khẳng định: Thứ nhất, Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN; Thứ hai, toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Thứ ba, nguyên tắc tổ chức là quyền lực thống nhất, có phân công phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thực tế, có tranh luận sôi nổi trong xã hội về nội dung này. Lý do bổ sung yếu tố này là cơ sở tất yếu của Nhà nước pháp quyền bảo đảm dân chủ, bảo đảm quyền con người, những yếu tố đi ngược lại, độc quyền, lạm quyền cần được loại trừ. Thêm nữa, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, thông qua Hiến pháp, nhân dân giao quyền cho Nhà nước, làm thể nào để bảo đảm quyền lực của nhân dân, để nhân dân không tuột khỏi tay mình quyền vốn là của mình.
Thực tiễn chính trị cho thấy có quyền lực thì có lạm quyền, do đó, phải có kiểm soát là yêu cầu tất yếu. Rất mừng là Dự thảo lần này đã khẳng định phải kiểm soát quyền lực. Vấn đề là tạo ra cơ chế hiến định thế nào, tôi đồng ý phải có 3 yếu tố lớn như anh Lê Minh Thông đã đề cập. Đồng thời xem xét tới các quyền bầu cử của nhân dân, cách thức tổ chức bầu cử, tổ chức trưng cầu ý dân, quyền phúc quyết phải có đối với những vấn đề trọng đại quốc gia.
Sự phân công rõ ràng và định danh sẽ tạo ra cơ chế để giám sát, lần này khẳng định rõ ràng và phối hợp với nhau hiệu quả. Rất cần cơ quan hiến định độc lập. Chúng tôi đã nhận được nhiều ý kiến rất đồng tình với việc thành lập Hội đồng Hiến pháp, đây là một trong những nội dung mới trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng : Nhiều bạn đọc ở các tỉnh Hải Dương, Thanh Hóa, TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh... hỏi:Dự thảo Hiến pháp tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản tại Điều 4 và vấn đề này đang nhận được sự quan tâm sâu sắc của các tầng lớp nhân dân. Xin PGS.TS Lê Minh Thông cho biết, xung quanh vấn đề này đang có những loại ý kiến nào ?
PGS.TS Lê Minh Thông: Điều 4 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp tiếp tục khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Qua theo dõi tổng hợp bước đầu các ý kiến đóng góp của nhân dân, các ngành, các cấp về nội dung này, chúng tôi nhận thấy, đa số các ý kiến tán thành với nội dung của Điều này như đã thể hiện trong dự thảo, vì đã thể hiện được một cách súc tích, rõ ràng và sát với nội dung đã nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị làm rõ hơn phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, cơ chế chịu trách nhiệm của Đảng và cơ chế để người dân giám sát hoạt động của Đảng; có ý kiến đề nghị, cần có Luật về hoạt động của Đảng Cộng sản nhằm tạo cơ sở pháp lý cho Đảng thực thi vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình đối với Nhà nước và xã hội. Cũng có ý kiến đề nghị không quy định về Đảng Cộng sản trong Hiến pháp mà nên để thực tế khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng.
Về cơ bản, Điều 4 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã kế thừa và giữ nguyên nhiều nội dung đã được quy định tại Điều 4 của Hiến pháp hiện hành. Việc Hiến pháp khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nội dung mang tính nguyên tắc. Đó là sự lựa chọn của lịch sử và của dân tộc ta. Mấy chục năm qua, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tiến trình cách mạng nước ta đã và đang là một tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan. Sự lãnh đạo ấy vừa có cơ sở đạo lý, vừa có cơ sở pháp lý. Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 1980 trước đây của Nhà nước ta đều khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Điều này cho thấy sự phù hợp với lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước cũng như thực tiễn đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổng kết 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992 cho thấy,quy định về vai trò và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội vẫn giữ nguyên giá trị. Trong lần dự thảo sửa đổi này, bên cạnh việc tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của Đảng, dự thảo Hiến pháp đãbổ sung một số nội dung mới về việc “Đảng gắn bó mậtthiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”. Quy định này là phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với vai trò lãnh đạo của Đảng được khẳng định trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, phù hợp với yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trước tình hình mới.
Tiếp thu các ý kiến đóng góp của nhân dân, của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, Ban biên tập và Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 sẽ nghiên cứu, cân nhắc một cách kỹ lưỡng để chỉnh lý, hoàn thiện quy định tại Điều 4 này, làm sao để các quy định này trở thành nền tảng, cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động của Đảng. Bên cạnh đó, những nội dung như phương thức lãnh đạo của Đảng, chế độ trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên cũng sẽ được tiếp tục nghiên cứu làm rõ hơn nữa. Nếu chưa quy định được ngay trong Hiến pháp thì về lâu dài cũng cần tiếp tục nghiên cứu để thể chế hóa thành luật về các vấn đề này. Đây sẽ là một trong những điều kiện bảo đảm để các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, góp phần làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng: Về nội dung này, xin thêm ý kiến của PGS.TS, Thứ trưởng Hoàng Thế Liên?
Thứ trưởngHoàng Thế Liên: Qua nghiên cứu, tất cả ý kiến đều cho rằng Điều 4 là phù hợp và đề nghị bổ sung, xác định theo hướng Đảng lãnh đạo dân chủ, công khai, minh bạch. Việc quy định nội dung Điều 4 là hợp lý. Còn ý kiến đề nghị cần có Luật về Đảng cũng cần được xem xét, cân nhắc.
|
Buổi giao lưu thu hút sự chú ý đông đảo của các cơ quan thông tấn, báo chí |
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng: Nhân kỷ niệm 82 năm ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, bạn Đỗ Phan Anh (nghiên cứu sinh tại Bangkok, Thái Lan) đề xuất, Dự thảo sửa đổiHiến pháp 1992 cần có quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các tổ chức đoàn thể. Vậy, quan điểm của PGS. TS Lê Minh Thông về vấn đề này?
PGS.TS Lê Minh Thông: Với bản Hiến pháp thông thường tập trung vào hai nội dung cơ bản: Thứ nhất là, quyền con người của công dân; thứ hai là, cơ chế thực hiện quyền lực của Nhà nước. Vì thế cho nên, bản Hiến pháp khác với Cương lĩnh, khác với văn kiện chính trị khác là không thể quy định được tất cả các vấn đề cụ thể. Do đó, Hiến pháp của chúng ta phải nằm trong trào lưu quy tắc chung lập hiến của thế giới. Tuy nhiên, với đặc điểm hệ thống chính trị của nước ta thì trong Hiến pháp có thêm quy định về hệ thống chính trị, trong đó có điều về Đảng, điều về Mặt trận Tổ quốc và hiện tại, có thêm một điều hệ thống mở.
Hệ thống chính trị của chúng ta có rất nhiều tổ chức. Từ trước đến nay, chúng ta có các tổ chức trong hệ thống chính trị mà nếu trong Hiến pháp cứ dành một điều cho từng hệ thống chính trị đó, chưa kể các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, thì rất khó mà đáp ứng được.
Do vậy mà các tổ chức chính trị - xã hội khác thì chúng ta quy định tổng quát trong quy định Mặt trận Tổ quốc thành viên, mà đã là thành viên thì cũng thấy mình trong đó. Mặt khác, tổ chức trong hệ thống chính trị còn phát triển nữa, và có thêm các thành viên mới. Nếu Hiến pháp chỉ quy định những tổ chức hiện tại thì khi tổ chức chính trị - xã hội mới xuất hiện thì sẽ quy định vào đâu, do đó rất khó.
Vì thế cho nên, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đi theo hướng quy định tổng quát mà không đi chi tiết cho từng tổ chức như: Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh... Như vậy, để đảm bảo ổn định tính lâu dài của Hiến pháp thì chúng ta quy định chung. Các tổ chức trong hệ thống chính trị có thể trông thấy mình thông qua các điều khoản khác, thông qua tổ chức về quyền, nghĩa vụ của công dân, thông qua chế độ về kinh tế, văn hóa, xã hội, thông qua bộ máy nhà nước…, chứ không nhất thiết mỗi tổ chức cần có quy định riêng.
Tất nhiên, mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị mong muốn có quy định riêng là hoàn toàn chính đáng. Và đương nhiên đây mới chỉ là Dự thảo. Chúng tôi vẫn tiếp tục lắng nghe các ý kiến của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức khác với sự cầu thị, để thấy được rằng, điều đó là hợp lý, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân thì Ban biên tập sẽ đề xuất, còn quyết định hay không là do Quốc hội.
Phó Tổng Biên tập Nguyễn Văn Thắng:Nhiều sinh viên đang học tập ở nước ngoài gửi câu hỏi về Báo, bày tỏ sự đồng tình và nêu quan điểm: đất nước ta muốn phát triển mạnh mẽ hơn thì quyền lực phải được kiểm soát, dân chủ phải được phát huy tối đa. PGS. TS Lê Minh Thông có đồng tình với quan điểm này?
PGS. TS Lê Minh Thông: Tôi cho rằng, mong muốn trên là rất đúng. Muốn thực hiện tốt quyền lực nhân dân thì quyền lực phải được kiểm soát . Đây là điều đương nhiên. Dự thảo lần này đang cố gắng thể hiện điều đó.
Muốn phát triển thì phải có dân chủ. Dân chủ là điều kiện tiên quyết của sự phát triển, bởi chỉ có dân chủ mới thể hiện được vai trò của nhân dân, của quần chúng.
Phải khẳng định rằng, sự nghiệp cách mạng của nước ta là sự nghiệp của quần chúng, là sự nghiệp của nhân dân. Nhân dân là chủ nhân không chỉ của sự nghiệp cách mạng mà còn là chủ nhân của sự sáng tạo. Vì vậy, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 lần này, cần nhấn mạnh vai trò của nhân dân, quyền của nhân dân trong việc thực hiện quyền dân chủ của mình.
Chúng ta mong muốn, chúng ta thiết tha với sự phát triển dân chủ . Chúng ta tạo mọi điều kiện cho nhân dân thực hiện tốt nhất, hiệu quả nhất quyền dân chủ của mình.
Song, chúng ta cũng kiên quyết phản đối mọi ý đồ, âm mưu lợi dụng dân chủ để phá hoại dân chủ. Nếu không nêu cao cảnh giác thì dễ bị lẫn lộn. Vì thế, bên cạnh việc tạo mọi điều kiện dân chủ cho người dân thì chúng ta phải nêu cao cảnh giác, để phân biệt rõ đâu là dân chủ thật, đâu là ngụy dân chủ để tránh bị lợi dụng.
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng:Một bạn đọc ở địa chỉ thuha23@gmail.comhỏi: Qua các cuộc hội thảo góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, về Chương IX (về chính quyền địa phương) chúng tôi thấy có ý kiến đề nghị cần làm rõ ngay trong Hiến pháp mô hình tổ chức chính quyền địa phương, cần xác lập các nguyên tắc tổ chức chính quyền đô thị khác với chính quyền nông thôn, tăng cường tính tự chủ của chính quyền đô thị? Xin PGS.TS Lê Minh Thông cho biết quan điểm về nội dung này?
PGS.TS Lê Minh Thông:Chính quyền địa phương là một chương rất quan trọng trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Trong chương này có quy định khá tổng quát.
Chúng ta đang trong quá trình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm không tổ chức HĐND cấp quận, huyện ở 10 tỉnh, thành và đang tổng kết thí điểm giai đoạn 2. Do chưa có thực tiễn cụ thể nên Dự thảo lần này cũng chưa thiết chế mô hình cụ thể trong tổ chức mô hình chính quyền địa phương.
Tinh thần chung được đặt ra là tổ chức phù hợp đơn vị hành chính, lãnh thổ, chính quyền nông thôn, đô thị và chỉ đưa ra đặc trưng. Cụ thể, các cấp đơn vị hành chính bao gồm: Trung ương - tỉnh, thành phố - quận, huyện - xã phường, thị trấn. Mô hình cụ thể để Luật định, và các quy định sẽ được triển khai trong quá trình làm luật cụ thể, có thể tổ chức luật chung, có thể tổ chức luật riêng. Dự thảo lần này mới dừng ở nguyên tắc chung như vậy.
Thực tế, cũng chưa thể mong muốn Dự thảo lần này tạo sự đột phá. Dẫu biết rằng, chính quyền địa phương rất sát với dân, do đó, thiết chế chính quyền địa phương quan trọng. Tuy nhiên, chưa có tổng kết cụ thể nên chưa thiết kế trong Dự thảo. Ban soạn thảo sẽ cân nhắc các phương án và câu hỏi đang đợi từ phía Chính phủ.
Theo tôi, vấn đề này sẽ được làm rõ hơn ở phần trả lời của Thứ trưởng Hoàng Thế Liên.
Thứ trưởng Hoàng Thế Liên : Tổng kết 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, rút ra 4 vấn đề:
Một là, địa vị pháp lý chính quyền địa phương chưa rõ ràng. Ai là người quyết định, vẫn đang còn chồng chéo.
Hai là,ba cấp chính quyền địa phương tổ chức như nhau, một số hoạt động không hiệu quả. Chúng ta chưa có một sự phân biệt chính quyền đô thị và nông thôn, mà đặc điểm nông thôn và đô thị khác nhau; do đó, quản lý phải khác nhau, vì thế, cần có sự phân biệt trong mô hình tổ chức
Ba là,yêu cầu tính chịu trách nhiệm ngày càng cao. HĐND hoạt động cơ chế tập thể đã đành, nhưng UBND thì rõ ràng chưa phát huy hiệu quả.
Bốn là,một vấn đề nữa là tổng kết chưa quy định nguyên tắc phân cấp rõ, lúc thì mạnh quá sinh ra lạm quyền, đó là những bất cập. Chúng tôi mong đợi, Dự thảo lần này sẽ khắc phục bất cập, nhưng mới chỉ đưa ra các khẳng định chung nhất. Đơn cử như: Chính quyền tổ chức 4 cấp: Trung ương; tỉnh, thành phố; quận, huyện; xã, phường, thị trấn... mà mô hình tổ chức thì chưa rõ. Thêm nữa, nguyên tắc cũng chưa được khẳng định rõ. Vì thế, nếu quy định ngay thì sẽ hạn chế, bất cập. Chúng tôi cũng mong lần này quy định rõ luôn để sau này Luật sẽ cụ thể hóa. Đó là yêu cầu của Chính phủ trong tập hợp ý kiến.
Hiện Chính phủ cũng đưa ra nhiều mô hình khác nhau. Đa số vẫn tiếp tục khẳng định nước ta có 4 cấp chính quyền. Có nhiều đơn vị hành chính, lãnh thổ đang có nhu cầu ra đời như: Vùng kinh tế trọng điểm, thành phố trong thành phố... (thực tiễn này đã phát sinh ở TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội, ví dụ như Sơn Tây là thành phố trong thành phố).
Ngoài ra, cần có quy định về các đơn vị hành chính khác. Thực tiễn đã chín muồi và khẳng định thì cần quy định rõ, vấn đề nào còn chưa rõ thì cần nghiên cứu, xem xét thêm. Ngoài ra, bảo đảm cơ chế hoạt động cho chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Hiện, đang thí điểm 10 tỉnh, thành không tổ chức cấp HĐND quận, huyện, phường, xã. Điều này rõ ràng làm tinh gọn bộ máy, nhưng cũng qua đó đặt ra yêu cầu cần xem xét cách tổ chức chính quyền đô thị và nông thôn. Điều này đòi hỏi tổng kết rõ ràng. Vừa rồi đã tổng kết thí điểm 2 lần rồi và tôi nghĩ, nên nhân rộng mô hình đó.
Một loại ý kiến khác cũng xuất hiện là ghi nhận mô hình cấp tỉnh và thành phố, đây là mô hình mở.
Các hội nghị, hội thảo đều khẳng định một số nguyên tắc bất biến: Ở địa phương phải có HĐND, không thể bỏ được; ở đâu có HĐND thì HĐND bầu cơ quan hành chính, dù là UBND hay ủy ban hành chính... ; ở đâu không có HĐND thì nhân dân bầu trực tiếp. Ngoài ra, cần quy định một số nguyên tắc như: Thành lập mới, chia tách, sát nhập lãnh thổ phải trên cơ sở tiêu chí, điều kiện địa phương và tham khảo ý kiến nhân dân; phải quy định đã là chính quyền địa phương thì cần phải chấp hành quy định của cơ quan cấp trên, nếu chỉ quy định chấp hành nghị quyết của HĐND là chưa đủ. Làm thế nào để đề cao trách nhiệm của UBND, khẳng định nguyên tắc phân cấp, chính quyền địa phương phải tự chủ trong nguyên tắc phân cấp đó.
Điều quan trọng là, chính quyền địa phương hoạt động phải dưới sự giám sát của cấp trên và giám sát của nhân dân. Không nên giao cho Luật một trách nhiệm quá lớn như hiện nay.
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng: Thưa PGS. TS Lê Minh Thông, trong ý kiến vừa rồi có đề cập đến ai sẽ là giám sát quyền lực của các cấp chính quyền địa phương? Ý kiến của ông như thế nào ?
PGS. TS Lê Minh Thông: Nhà nước chúng ta là Nhà nước quyền lực duy nhất. Việc xác lập các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp chỉ là tương đối. Do đó, đối với các cơ quan dân cử ở địa phương, không nên quá câu nệ do Quốc hội hay Chính phủ giám sát.
Thực tiễn vừa qua cho thấy, không vướng mắc gì khi thực hiện cơ chế giám sát linh hoạt trên, mà nó còn tạo nhiều kênh giám sát kiểm soát, tạo thống nhất hơn trong thực thi luật pháp. Đương nhiên, quá trình thực thi cũng có vướng mắc cần khắc phục.
|
Các vị khách mời và tổ phóng viên tác nghiệp tại buổi giao lưu |
Phó Tổng biên tập Nguyễn Văn Thắng: Nhiều bạn đọc trong các cơ quan bảo vệ pháp luật hỏi: Thứ trưởng Bộ Tư pháp có thể cho biết, cảm nhận về kỹ thuật lập pháp thông qua Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này so với các bản Hiến pháp trước đây? Ông có đồng tình với quan điểm: Hiến pháp cần bảo đảm tính ổn định lâu dài và có tính dự báo cao ?
Thứ trưởng Hoàng Thế Liên: Chúng ta phải quan niệm, Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc. Trước đây, chúng ta quan niệm, Hiến pháp là văn kiện chính trị pháp lý nhiều hơn, gửi gắm vào đó quá nhiều quy định chuyên môn. Lần này, Hiến pháp chúng ta lược bớt quy định mang tính chuyên môn, bảo đảm Hiến pháp thực sự là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc, chi phối sự phát triển của hệ thống pháp luật.
Thứ hai, nước ta là nước đang phát triển. Việc sửa đổi Hiến pháp lần này cần quy định những vấn đề mang tính cơ bản nhất, không nên quy định những vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của luật.
Xin thông tin luôn, khi chúng ta xây dựng Hiến pháp năm 1992, cả nước chỉ có 93 luật, nhưng đến nay, chúng ta có đến 333 luật. Điều này có nghĩa là hệ thống luật rất phát triển. Do đó, chúng ta có điều kiện để Hiến pháp rút về quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền.
Do đó, chúng tôi nghĩ vấn đề gì mà thuộc tầm của luật thì để luật điều chỉnh. Chúng tôi rà soát thấy rất rõ là trong Điều 2 Hiến pháp nói rằng, Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; khẳng định nguyên tắc tổ chức, vận hành của Nhà nước ta, trong đó có yếu tố kiểm soát như tôi vừa nói.
Theo Điều 6, nhân dân thực hiện quyền lực thông qua dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Quốc hội và HĐND là các cơ quan nhà nước. Đó là một tư tưởng rất cốt lõi, xuyên suốt toàn bộ nội dung của Hiến pháp. Chúng ta lấy đó để đối chiếu vào các quy định từ quyền con người, quyền cơ bản của công dân, từ chế độ kinh tế và cho đến các cơ quan của bộ máy nhà nước.
Trước đây, khi tổng kết Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, chúng ta đưa ra nguyên tắc Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, nhưng tư tưởng của pháp quyền chưa thấm đậm trong hệ thống pháp luật thì lần này, chúng ta phải thể hiện.
Là một văn bản dài, quy định nhiều vấn đề nên chúng ta hay sử dụng những thuật ngữ không thống nhất, chỗ thì theo quy định của pháp luật, chỗ thì theo quy định của luật, chỗ thì nói là “chỗ ở”, chỗ thì nói là “nơi ở”. Lần này, chúng tôi rà soát một cách rất cẩn thận. Các thuật ngữ trong Hiến pháp phải được thể hiện một cách rõ ràng, minh bạch và dễ hiểu vì đây là bản Hiến pháp của nhân dân.
Phó Tổng Biên tập Nguyễn Văn Thắng:Thời gian gần đây, một số cơ quan báo chí đã lật tẩy hành vi giả mạo chữ ký của người dân ở Hà Tĩnh khi kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992, trong đó, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang. Vậy, các ông đánh giá như thế nào về vai trò của báo chí cách mạng Việt Nam trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nhất là trong đợt tuyên truyền về việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Và, qua đây, các ông có mong muốn, đề xuất gì mới đối với báo chí nước nhà ?
PGS. TS Lê Minh Thông: Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn đánh giá cao vai trò của báo chí cách mạng. Trong tiến trình cách mạng, báo chí đã đóng góp to lớn vào thắng lợi chung của dân tộc ta, đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến. Báo chí là đội tiên phong để đưa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước tới các tầng lớp nhân dân và phản ánh kịp thời ý chí, nguyện vọng của nhân dân đến với Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/12/2012 của Quốc hội về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, chúng tôi thấy, một lần nữa báo chí đã thể hiện rõ vai trò là đội tiên phong trong việc tích cực phổ biến, tuyên truyền, giải thích các nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992; thường xuyên phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân, kịp thời hướng dẫn công luận và kịp thời chuyển các ý kiến góp ý đến các cơ quan có trách nhiệm.
Báo chí trong thời gian qua cũng luôn đi đầu trong cuộc đấu tranh tư tưởng, phản bác những luận điệu xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng; xuyên tạc các quy định của nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.
Một trong những minh chứng mới đây là báo chí đã đưa ra rất nhiều bằng chứng có sức thuyết phục về việc giả mạo chữ ký của một số người dân ở Hà Tĩnh, Thái Bình khi kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992, trong đó, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang.
Thứ trưởng Hoàng Thế Liên: Tôi cho rằng, vai trò của báo chí trong lấy ý kiến nhân dân về nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 là hết sức quan trọng. Điều đáng nói ở đây là vấn đề trung thực. Vì vậy, việc giả mạo chữ ký như đã nói ở trên là việc làm rất đáng lên án. Rất mong báo chí thấy rõ trách nhiệm của mình để tích cực đấu tranh với những tiêu cực trong quá trình góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Phó Tổng Biên tập Nguyễn Văn Thắng: Còn rất nhiều câu hỏi nữa bạn đọc gửi đến các vị khách mời. Đến thời điểm này, tôi xin dành câu hỏi cuối cùng cho PGS. TS Lê Minh Thông. Bạn đọc Thủy Hương (giáo viên ở huyện Khoái Châu, Hưng Yên) và nhiều bạn đọc ở Đồng Nai cùng nội dung hỏi. Câu hỏi nêu: Ngày 6/3/2013, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã ký ban hành Văn bản số 250/UBDTSĐHP "Về việc tiếp tục triển khai Nghị quyết của Quốc hội lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp". Như vậy, thời gian lấy ý kiến nhân dân sẽ đến hết ngày 30/9 thay vì 31/3 như trước đây. Theo ông, trong thời gian tới, cần cócơ chế tiếp thu như thế nào để tiếp tục thu thập được những ý kiến tâm huyết, trí tuệ của các tầng lớp nhân dân?
PGS.TS Lê Minh Thông: Theo Nghị quyết của Quốc hội, đến ngày 31/3/2013, kết thúc lấy ý kiến nhân dân, với hai mốc thời gian:
Ngày 15/3, tất cả các cơ quan xây dựng báo cáo gửi về cơ quan soạn thảo.
Ngày 31/3, báo cáo đợt 2 tiếp thu giải trình các cơ quan hữu quan và trình Quốc hội.
Tuy nhiên, điều này cũng không có nghĩa là kết thúc việc lấy ý kiến nhân dân, mà sẽ tiếp tục đến thời điểm tháng 9/2013, khi Quốc hội thảo luận và thông qua. Vì vậy, sau ngày 31/3, nhân dân vẫn tiếp tục có ý kiến và các cấp, các ngành có trách nhiệm tiếp tục tổng hợp, cập nhật báo cáo bổ sung.
Trên các mạng thông tin: Cổng thông tin duthaoonline của Quốc hội và Cổng thông tin điện tử Chính phủ vẫn tiếp tục cập nhật. Các cơ quan thông tấn báo chí vẫn tiếp tục triển khai, phản ánh các hoạt động về việc lấy ý kiến toàn dân nhằm phát huy tối đa mọi cơ hội, mọi thời gian để huy động rộng khắp nhất các ý kiến của mọi tầng lớp nhân dân cho đến lúc Quốc hội thông qua.
|
Phó Tổng Biên tập Nguyễn Văn Thắng phát biểu kết thúc chương trình giao lưu |
Phó Tổng Biên tập Nguyễn Văn Thắng: Kính thưa các vị khách mời, kính thưa quý bạn đọc!
Chương trình giao lưu trực tuyến với chủ đề “Huy động trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng Hiến pháp” đã nhận được sự hưởng ứng của đông đảo bạn đọc với hàng trăm câu hỏi gửi về tòa soạn Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua gần 3 giờ giao lưu, các vị khách mời: PGS. TS Lê Minh Thông - Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội, Phó Trưởng Ban biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; PGS.TS, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên - Tổ trưởng Tổ giúp việc của Ban Chỉ đạo của Chính phủ về tổng kết thi hành Hiến pháp 1992 đã trả lời thẳng thắn, trách nhiệm những câu hỏi do bạn đọc gửi tới Báo.
Các câu hỏi tập trung vào các nội dung: Công tác tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992; những kết quả ban đầu cùng với những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai đợt lấy ý kiến nhân dân. Cách thức, cơ chế tiếp nhận ý kiến nhân dân để tránh mang tính hình thức. Phân tích, lập luận về các nội dung cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, trong đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; khẳng định lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
Nhiều câu hỏi của bạn đọc đã được các vị khách mời giải đáp và cập nhật thông tin, như: Nội dung nào trong Dự thảo được người dân tham gia ý kiến nhiều nhất; về những điểm mới trong quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp; về quy định đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Buổi giao lưu cũng đề cập đến mô hình tổ chức bộ máy nhà nước hiện nay, về vấn đề phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước; về chế định Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia; về vai trò của nhân dân trong thực hiện quyền lực nhà nước; về quyền phúc quyết của nhân dân; về việc tiếp thu những giá trị tinh hoa của các bản Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, về những điểm mới trong kỹ thuật lập pháp...
Qua buổi giao lưu, chúng ta cũng thấy được trách nhiệm của các cơ quan thông tin đại chúng với tư cách là công cụ của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị và là diễn đàn của nhân dân, nhằm thông tin tuyên truyền, vận động cổ vũ các tầng lớp nhân dân đóng góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Đồng thời, đấu tranh, phản bác lại các thế lực thù địch lợi dụng lấy ý kiến để chống phá, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.
Còn rất nhiều câu hỏi khác bạn đọc đã gửi đến, nhưng do điều kiện thời gian, nên các vị khách mời giao lưu chưa thể trả lời trực tiếp đến bạn đọc. Những vấn đề do bạn đọc nêu ra đã được chúng tôi ghi lại đầy đủ để tổng hợp, trình các cấp có thẩm quyền xem xét, nghiên cứu, tiếp thu.
Trong thời gian từ nay đến ngày Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được trình Quốc hội thông qua (ngày 30/9/2013), Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục thu thập đầy đủ, khách quan những ý kiến tâm huyết của các tầng lớp nhân dân, đăng tải kịp thời những ý kiến xác đáng, nhằm góp phần xây dựng Hiến pháp thực sự là tâm huyết, trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn sự có mặt và tham gia buổi giao lưu của hai vị khách mời: PGS.TS Lê Minh Thông - Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội, Phó Trưởng Ban biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; PGS.TS, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên.
Chân thành cảm ơn sự quan tâm, đặt câu hỏi của quý vị bạn đọc, cảm ơn các cơ quan báo chí bạn đã quan tâm theo dõi và đưa tin kịp thời về nội dung buổi giao lưu ngày hôm nay. Xin trân trọng cảm ơn./.
|
Các vị khách mời và Ban Biên tập Báo chụp ảnh kỷ niệm kết thúc cuộc giao lưu |