|
Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại Hội thảo. (Ảnh: BL) |
Sáng 29/7, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tổ chức Hội thảo đánh giá kết quả thực hiện Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững gen giai đoạn 2015 - 2024 và định hướng triển khai giai đoạn 2025 - 2030.
Phát hiện, thu thập và bảo tồn trên 7.000 nguồn gen có giá trị làm thuốc
Theo Bộ KH&CN, thời gian qua, Bộ KH&CN cùng các Bộ, ngành, địa phương đã chủ động, tích cực tham gia vào công tác xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp lý và triển khai công tác bảo tồn, lưu giữ, khai thác và phát triển nguồn gen. Việc triển khai Chương trình đã đạt được nhiều kết quả đáng kích lệ trong công tác bảo tồn và phát triển nguồn gen, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và quốc phòng - an ninh.
Tính đến năm 2023, thông qua các nhiệm vụ bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen, tổng số nguồn gen được thu thập và lưu giữ được là 80.911, trong đó có 47.772 nguồn gen thực vật nông nghiệp, 5.768 nguồn gen cây lâm nghiệp, 7.039 nguồn gen dược liệu, 891 nguồn gen vật nuôi, 391 nguồn gen thủy sản, 19.050 nguồn gen vi sinh vật.
Điển hình, Trung tâm Tài nguyên thực vật (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) đã điều tra thu thập được trên 10.000 nguồn gen thuộc các nhóm cây trồng. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam và các trường đại học có khoa lâm nghiệp thời gian qua đã thu thập bảo tồn gần 2.000 nguồn gen thuộc 70 loài cây lâm nghiệp, trong đó có các nguồn gen của nhiều loài quý hiếm với 100% nguồn gen bản địa về trồng ở một số nơi địa phương như: Sơn La, Lào Cai, Ba Vì, Phú Thọ, Lâm Đồng, Đăk Nông, Bình Thuận… Đặc biệt, trong những năm gần đây, số lượng nguồn gen có giá trị làm thuốc đã được phát hiện và thu thập, bảo tồn khoảng trên 7.000 nguồn gen.
Bên cạnh đó, đã khai thác sử dụng hiệu quả, phát triển nhiều nguồn gen quý hiếm có giá trị kinh tế thuộc lĩnh vực lâm nghiệp, dược liệu, vật nuôi, thủy sản, vi sinh vật... Các nhiệm vụ khai thác và phát triển nguồn gen đã được triển khai với trên 300 nguồn gen động, thực vật và trên 700 nguồn gen vi sinh vật; trong đó, làm chủ được 178 quy trình công nghệ, hướng dẫn kỹ thuật về nhân giống, chọn tạo giống, canh tác, nuôi và chăm sóc các nguồn gen; triển khai 129 mô hình thử nghiệm ứng dụng kỹ thuật và nhân rộng kết quả trong thực tiễn sản xuất, mang lại hiệu quả về kinh tế, xã hội tại nơi triển khai. Các nhiệm vụ cũng đã xây dựng được hàng trăm tiêu chuẩn cơ sở, bao gồm tiêu chuẩn đàn hạt nhân, cây trội, đàn giống, đàn sản xuất, cây con thương phẩm...
Cùng với các Bộ ngành, các địa phương cũng tích cực tham gia Chương trình đã đạt được nhiều thành tựu, điển hình như các tỉnh Quảng Ninh, Thái Nguyên, Hà Nội, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, thành phố Cần Thơ... với nhiều kết quả nổi bật, đóng góp quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương.
Trong đó, nhiều sản phẩm đã trở thành thành sản phẩm OCOP 5 sao quốc gia như Ngọc Trai Hạ Long xuất khẩu sang Anh, Ấn Độ, Nhật Bản với giá trị khoảng 6 - 8 tỷ đồng/năm; Trà hoa vàng Quy hoa đang đàm phán để Doanh nghiệp Hàn Quốc phân phối toàn cầu; Hồi Bình Liêu xuất khẩu đạt trên 50 tỷ đồng/năm.
Một số nguồn gen đã phát triển thành sản phẩm hàng hóa tập trung, được xây dựng và bảo hộ thương hiệu nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường, tạo việc làm cho lao động khu vực nông thôn như: Cam Xã Đoài, bưởi Diễn, quýt Bắc Kạn, hồng không hạt, miến dong, vịt bầu cổ xanh, gạo bao thai Chợ Đồn, khẩu nua lếch Ngân Sơn, chè shan tuyết Bằng Phúc huyện Chợ Đồn… Các kết quả nói trên là minh chứng rõ nét cho những nỗ lực của công tác bảo tồn, đánh giá và phát triển nguồn gen trong cả nước thời gian qua.
Phát triển công nghệ bảo tồn, lưu giữ, đánh giá nguồn gen
Phát biểu tại Hội thảo, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt cho biết, thông qua kết quả Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững gen giai đoạn 2015 - 2024 do Bộ KH&CN là cơ quan đầu mối thực hiện, đã có trên 80.000 nguồn gen đặc hữu, quý, hiếm được bảo tồn, lưu giữ. Đây là nguồn vật liệu vô cùng quý, phục vụ cho công tác chọn tạo, lai tạo các giống mới có năng suất, chất lượng tốt hơn, giá trị cao hơn. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu đã đánh giá ban đầu được gần 56.000 nguồn gen; nhiều nguồn gen được khai thác và ứng dụng trong sản xuất, đời sống như: Sâm ngọc linh, tôm mũ ni, cá hô, lúa bản địa chất lượng cao, cây vù hương, lợn ỉ... góp phần nâng cao giá trị gia tăng của các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là ngành nông nghiệp.
|
Toàn cảnh Hội thảo. (Ảnh: BL) |
Cũng theo Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, đối tượng của Chương trình là các nguồn gen sinh vật sống nên công tác bảo tồn và phát triển nguồn gen đòi hỏi phải thường xuyên, liên tục. Vì vậy, việc xây dựng hành lang pháp lý để tiếp tục triển khai Chương trình trong giai đoạn tiếp theo, không để gián đoạn là cấp thiết.
Bộ trưởng nhấn mạnh, thời gian tới, để hoàn thành các mục tiêu đặt ra, góp phần thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, cần tiếp tục tăng cường, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ phục vụ công tác bảo tồn, lưu giữ, đánh giá nguồn gen; gia tăng nguồn lực khoa học và công nghệ nhằm bảo tồn, sử dụng bền vững nguồn gen góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ nguồn tài nguyên của đất nước.
Giáo sư, Tiến sỹ Chu Hoàng Hà, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho rằng, theo xu hướng, Việt Nam hướng tới thúc đẩy phát triển nền kinh tế nền tảng sinh học, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã cho thấy tầm quan trọng và vai trò của nguồn gen bản địa trong phát triển kinh tế - xã hội dựa trên thế mạnh phát triển nông nghiệp và đa dạng nguồn gen bản địa. Do vậy, triển khai Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững gen giai đoạn 2025 - 2030 cần tiếp tục ưu tiên phát triển nghiên cứu cơ bản chuyên sâu về nguồn gen (số hóa nguồn gen theo chuẩn quốc tế, duy trì bảo tồn, đăng ký sở hữu trí tuệ…) kết hợp với nghiên cứu truyền thống trên các nguồn gen động vật, thực vật và vi sinh vật học.
Tại Hội thảo, các chuyên gia đã đề xuất các giải pháp, các cơ chế chính sách để tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai công tác bảo tồn, đánh giá, khai thác và phát triển nguồn gen sinh vật; định hướng khoa học và công nghệ trong bảo tồn, đánh giá, khai thác và phát triển nguồn gen sinh vật đến năm 2030./.