Ứng dụng công nghệ hiện đại giữ môi trường nuôi biển bền vững

Thứ tư, 16/08/2023 20:36
(ĐCSVN) - Việc chuyển đổi sang nuôi hải sản xa bờ, phát triển quy mô công nghiệp, hướng tới xuất khẩu, nâng cao chất lượng và giá trị thủy sản Việt Nam được xem là xu hướng tất yếu nhằm đạt mục tiêu từ nay đến năm 2025, diện tích nuôi biển đạt 280.000 ha với 10 triệu m3 lồng nuôi và sản lượng khoảng 850.000 tấn, xuất khẩu đạt từ 0,8-1 tỷ USD.

Lĩnh vực nuôi biển đã được Đảng, Chính phủ xác định là động lực phát triển kinh tế với nhiều chính sách đã được ban hành, điển hình là Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đã được phê duyệt với tầm nhìn, mục tiêu, giải pháp cụ thể. Chủ trương phát triển nuôi biển đã được xác định tại Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định số 339/QĐ-TTg; Quyết định số 985/QĐ-TTg ngày 16/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình quốc gia phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2021-2030 và Quyết định số 1664/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

 Lĩnh vực nuôi biển đã được Đảng, Chính phủ xác định là động lực phát triển kinh tế  (Ảnh: PV)

Nuôi biển theo hướng hiện đại bền vững còn gặp khó

Với đường bờ biển dài, nhiều eo vịnh, đảo, nước ta có tiềm năng to lớn để phát triển ngành nuôi trồng thủy sản trên biển, nhưng thực tế cho thấy quy mô nghề nuôi biển ở nước ta phần lớn là manh mún nhỏ lẻ, rất ít doanh nghiệp tham gia đầu tư nuôi biển quy mô lớn; cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, máy móc thiết bị còn đơn giản, thiếu con giống, thức ăn và công nghệ lồng nuôi lạc hậu. Trong khi đó, hải sản xuất khẩu của Việt Nam lại đang bị Ủy ban châu Âu áp thẻ vàng IUU về các vấn đề liên quan đến đánh bắt, khai thác bất hợp pháp. Việc gỡ thẻ vàng IUU đến nay đã 5 năm nhưng chưa thành công. Do vậy, câu chuyện nuôi thủy sản biển đặt ra ở thời điểm này rất thời sự, đòi hỏi Việt Nam phải giảm khai thác hải sản từ tự nhiên, tăng nuôi trồng và đây cũng là hướng đi chiến lược, được Bộ NN&PTNT coi là một chính sách giúp cân bằng giữa nhu cầu của con người với bảo tồn tài nguyên biển và phát triển bền vững.

Đề cập tới tiềm năng nuôi biển của Việt Nam, những vùng nào có thể đẩy mạnh nghề nuôi biển, ông Trần Công Khôi, Trưởng phòng Giống và thức ăn thủy sản, Cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) cho biết: năm 2017 đã có Nghị quyết 09 về phát triển kinh tế biển rồi Luật Thủy sản được ban hành đã tạo hành lang pháp lý rất lớn để phát triển kinh tế thủy sản. Đến năm 2018, có Nghị quyết số 36 trong đó có nội dung phát triển kinh tế thủy sản. Rồi năm 2021, Thủ tướng cũng đã phát hành Đề án nuôi biển đến năm 2030 tầm nhìn 2045. Với hệ thống chính sách này, Việt Nam đã có đầy đủ cơ sở pháp lý, vấn đề hiện tại chỉ là thực hiện thế nào cho hiệu quả.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam cho biết, chúng ta có nhiều thuận lợi, có thể khai thác nghề nuôi biển không phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng trong thực tế, từ sản xuất đến quản lý còn nhiều vướng mắc cần được các cơ quan chức năng, địa phương tháo gỡ.

Trao đổi về công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ trong nuôi trồng thủy sản trên biển, ông Đặng Xuân Trường, Trưởng phòng Khuyến ngư, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia (Bộ NN&PTNT) nhận định, thời gian qua, thực hiện Quyết định 339 của Chính phủ và Đề án 1664 Bộ NN&PTNT giao cho Trung tâm khuyến nông thực hiện các giải pháp bền vững nghề nuôi biển, Trung tâm đã tập trung liên kết với các viện, trường có công nghệ tốt nhất chuyển giao kỹ thuật nuôi biển cho bà con và thực tế đã triển khai tại Khánh Hòa, Quảng Ngãi, Kiên Giang, hiện, đang tiếp tục triển khai hỗ trợ bà con tại Ninh Thuận, Bình Thuận. Diện tích nuôi biển chuyển sang công nghệ mới đang ngày càng tăng nhưng cũng gặp khó không ít khi vẫn còn chênh lệch giữa nghiên cứu với ứng dụng, đặc biệt là nhận thức thiếu đồng đều và lỏng lẻo trong liên kết sản xuất, tổ chức sản xuất, làm sao kết nối nhà nghiên cứu, cán bộ khuyến nông để giảm chi phí đầu vào cho bà con, giảm trung gian, tăng hiệu qủa cho bà con trong thời gian tới.

Về việc ứng dụng công nghệ mới trong nuôi trồng thủy sản trên biển, bà Nguyễn Thị Hải Bình – Tổng Giám đốc Công ty CP Tập đoàn STP Group cho rằng, hiện nay, nuôi trồng thủy sản (NTTS) trên biển còn một số điểm hạn chế như: Suất đầu tư vật liệu nhựa xanh trong thời điểm kinh tế khó khăn như hiện nay “bị nhân” vài lần; Vấn đề nhận thức còn hạn chế, có những hộ gia đình 3-4 đời NTTS trên biển, sản xuất manh mún, vật liệu để NTTS thường được làm bằng tre, vật liệu chai, lọ… Đây là yếu tố đã gắn rất lâu đời, việc cải tiến, thay đổi gặp nhiều khó khăn. Theo bà Bình, để NTTS trên biển bền vững, gắn với bảo vệ môi trường, việc đầu tư lồng nhựa HDPE đang là hướng đi mới cho bà con ngư dân. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp cần quy hoạch NTTS trên biển gắn với du lịch.

Nói về việc phát triển các mô hình nuôi biển cũng như vật tư đầu vào cho nuôi biển, ông Đỗ Văn Kiểm – Giám đốc Kinh doanh thức ăn cá biển - Công ty TNHH De Heus Việt Nam khuyến cáo: sự hỗ trợ của Nhà nước còn hạn chế trong việc tạo cơ chế phù hợp để phát triển ngành thức ăn chăn nuôi dành riêng cho nuôi biển. Do đó, cần tăng cường nghiên cứu, áp dụng công nghệ phù hợp, giá cả phải chăng cũng như kiểm soát tiêu chuẩn chất lượng và tăng cường hợp tác phát triển mô hình nuôi biển đa dạng hơn, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế thủy sản nói chung, ngành nuôi biển nói riêng theo đúng tiềm năng to lớn sẵn có.

Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Toàn Thư, Chuyên viên phụ trách lĩnh vực Nuôi trồng thủy sản - Chi cục Thủy sản tỉnh Khánh Hòa cho biết, Khánh Hòa có nhiều lợi thế trong nuôi biển, trong đó có 3 vịnh lớn rất thuận lợi để nuôi biển… Bên cạnh đó, tỉnh có nhiều cơ sở nghiên cứu, viện nghiên cứu chủ động sản xuất được nhiều con giống mới chất lượng, năng suất cao. Nhờ thế mà nghề nuôi biển của tỉnh có nhiều phát triển. Tỉnh đang thí điểm mô hình nuôi biển ứng dụng công nghệ mới và xem đây là quá trình giúp địa phương hoàn thiện dần mô hình lồng bè, cách nuôi, phương thức nuôi để nuôi biển đạt được hiệu quả cao nhất.

 Một mô hình nuôi biển ứng dụng công nghệ hiện đại (Ảnh: STP)

Đề xuất các giải pháp thúc đẩy nuôi biển bền vững

Chia sẻ về các giải pháp thúc đẩy nuôi biển bền vững, ông Trần Công Khôi, Trưởng phòng Giống và thức ăn thủy sản, Cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) nhấn mạnh, Đảng và Nhà nước thời gian qua rất quan tâm đến vấn đề nuôi biển, chủ trương là giảm khai thác tăng nuôi, nuôi biển chứ nuôi nội địa đã ở mức trần. Về chế tài, nuôi biển đã được đưa vào Luật Thủy sản năm 2017, ở luật này nghề nuôi biển được thể hiện rất rõ với hành lang pháp lý đã rất rõ ràng, cơ quan chuyên môn vẫn đang tiếp tục sửa Nghị định 26 về cấp phép nuôi trồng trên biển để có các chính sách đồng bộ cho người dân. Về chuyển đổi nghề, Chính phủ cũng đã có Quyết định 339 về chiến lược thủy sản từ 2030-2045. Thủ tướng cũng phê duyệt quyết định 1664 về đề án phát triển thủy sản trên biển cùng với đó Chính phủ có Quyết định 208 về chuyển đổi nghề xâm hại môi trường biển sang nghề khác. Chính sách cơ bản đã có rồi, thực tế là chúng ta đang tiến hành cùng các tổ chức đơn vị cá nhân chuyển đổi nghề cho bà con khai thác ven bờ.

Ông Nguyễn Hữu Dũng cho rằng, quy hoạch không gian biển quốc gia đang bị chậm tiến độ, sắp tới, Quốc hội sẽ thảo luận về quy hoạch này. Sau khi Quốc hội thảo luận, thông qua thì mới có thể có cơ sở để triển khai. Hơn nữa, sau khi có quy hoạch, phải tiến hành sớm giao khu vực biển cho các tổ chức, cá nhân để NTTS trên biển. “Chúng ta không thể kêu gọi ngư dân đầu tư vào công nghệ mới như lồng nhựa HDPE nếu như họ không có quyền sử dụng vùng biển đó lâu dài thì không thể đầu tư bài bản được”- ông Dũng khuyến cáo.

Cũng theo ông Dũng, hiện, tiêu chuẩn, quy chuẩn Việt Nam liên quan đến nuôi biển mới đang triển khai xây dựng, quá trình xây dựng và phê duyệt mất rất nhiều thời gian, kiến nghị các tỉnh làm các tiêu chuẩn cơ sở để ít nhất các địa phương có nghề nuôi biển ban hành sớm.

Góp ý đề xuất thêm giải pháp, bà Nguyễn Thị Hải Bình, Tổng Giám đốc Công ty CP Tập đoàn STP Group cho biết, có thể xem xét việc xây dựng chuỗi NTTS với kết hợp du lịch trải nghiệm cộng đồng. Phân tích thêm, ông Nguyễn Hữu Dũng cho rằng, 2 ngành này muốn đi với nhau thì cả 2 cùng phải nâng cấp và với phương châm tích hợp nhiều ngành kinh tế biển khác nhau vào với nhau thì chắc chắn trong tương lai không xa chúng ta sẽ có ngành kinh tế biển phát triển bền vững và hiệu quả.

Đồng quan điểm, ông Trần Công Khôi lại mong muốn Việt Nam có các “thành phố nuôi trên biển”, ở đó, các lồng bè xếp đều nhau như một thành phố trên biển. "Nuôi trồng thủy sản biển như vậy mà kết hợp được với du lịch là điều tuyệt vời, các tỉnh cần sớm có giải pháp phát triển hài hòa du lịch và nuôi thủy sản biển", ông Khôi nhấn mạnh.

Theo ông Đặng Xuân Trường, Trưởng phòng Khuyến ngư, Trung tâm Khuyến nông quốc gia (Bộ NN&PTNT), để phát huy hơn nữa nghề nuôi biển thời gian tới, chúng ta phải phối hợp các Viện để có con giống, hợp tác với doanh nghiệp để có thức ăn cùng đồng hành với khuyến nông và chuyển giao cho bà con. Các mô hình khuyến nông sẽ hướng tới liên kết với các hợp tác xã để hình thành các chuỗi liên kết, kỹ thuật đã có khuyến nông nhưng đầu ra rất quan trọng, đưa các mô hình gắn du lịch như ở Vân Phong ở Khánh Hòa, Phất Cờ ở Quảng Ninh gắn tiêu thụ sản phẩm để có hiệu quả nhất.

Các đại biểu cũng đề cập thêm đến vấn đề thị trường cho các sản phẩm nuôi biển và đặc biệt nhấn mạnh tới bảo vệ môi trường ở các vùng nuôi biển trên cơ sở cơ quan chức năng mà trực tiếp là Cục Thủy sản đưa ra những quy định mà người nuôi phải thực hiện đồng thời có chế tài xử phạt rõ ràng. Đáng chú ý, các đơn vị muốn được cấp phép nuôi biển thì hồ sơ phải có đánh giá tác động môi trường. Một số ý kiến cũng gợi ý rằng, trong sự phát triển chung đó, riêng Trung tâm KNQG cần tập trung ưu tiên phát triển các mô hình sản xuất; tìm ra các giải pháp về vốn để phát triển nuôi biển cho tất cả các tỉnh có tiềm năng.

 

Hà Anh

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực