Làm rõ quy định xác định mỗi quan hệ liên kết theo vốn vay

Thứ năm, 03/06/2021 12:22
(ĐCSVN) - Hội Doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên vừa cho biết, quy định quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết đang khiến khoảng 7.800 doanh nghiệp trong tỉnh trong tình thế “hoang mang”.
 Ảnh minh họa (Ảnh: M.P)

Cụ thể, thông báo mới của Tổng cục Thuế tại Hội nghị trực tuyến ngày 18/3/2021 đưa trường hợp “Công ty vay của ngân hàng thương mại với tỷ lệ trên 25% vốn chủ sở hữu và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn được xác định là các bên có quan hệ liên kết. Khi đó giao dịch phát sinh giữa 02 bên là giao dịch liên kết”. Nếu đưa ngân hàng và doanh nghiệp vào là giao dịch liên kết theo điểm d khoản 2 Điều 5 thì thực chất quy định này dường như chuyển hướng mục tiêu “chống vốn mỏng” đối với doanh nghiệp; chứ không phải nhằm mục tiêu chống chuyển giá; trái với tinh thần của Nghị định về quản lý thuế đối với giao dịch liên kết. 

Về vấn đề này, Bộ Tài chính cho biết, quy định về xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay được quy định tại Thông tư số 117/2005/TT-BTC, Thông tư số 66/2010/TT-BTC, Nghị định số 20/2017/NĐ-CP và Nghị định số 132/2020/NĐ-CP.  Đây không phải là quy định mới về xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay. Nghị định số 20/2017/NĐ-CP và Nghị định số 132/2020/NĐ-CP còn nâng mức tỷ lệ cao hơn so với quy định tại Thông tư số 66 (từ 20% lên mức 25%). 

Khi xác định 02 doanh nghiệp có mối quan hệ liên kết thì giao dịch phát sinh giữa 2 doanh nghiệp này là giao dịch liên kết và phải thực hiện kê khai xác định giá giao dịch liên kết theo quy định. Đồng thời nếu doanh nghiệp có giao dịch liên kết chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế sẽ áp dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị định 20/2017/NĐ-CP (được sửa đổi bổ sung tại Nghị định số 68/2020/NĐ-CP) và khoản 3 Điều 16 Nghị định số 132/2020/NĐ-CP. Do đó, đây không phải là quy định mới gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay.

Tuy nhiên, do nhiều doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu hoạt động bằng việc vay vốn ngân hàng với mức vốn vay lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu nên nhiều doanh nghiệp được xác định có mối quan hệ liên kết với doanh nghiệp là Ngân hàng khi vay vượt 25% vốn góp của chủ sở hữu và chiếm trên 50% tổng các khoản nợ trung và dài hạn. 

Thực tế, qua triển khai thực hiện, Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính) cũng nhận được một số văn bản hỏi của các Cục Thuế về việc xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay trong đó có xác định mối quan hệ liên kết vay giữa doanh nghiệp với ngân hàng với mức vốn vay trên 25% vốn chủ sở hữu. Giao dịch xác định chi phí lãi vay với ngân hàng theo nguyên tắc giao dịch độc lập không phải là vướng mắc của doanh nghiệp mà vấn đề là ở việc khi xác định có quan hệ liên kết theo vốn vay với ngân hàng, doanh nghiệp và ngân hàng phát sinh giao dịch sẽ được xác định là giao dịch liên kết, chi phí lãi vay được trừ của doanh nghiệp sẽ áp dụng khống chế theo quy định của Nghị định.

Theo đó, việc xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay với đặc thù của doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải nghiên cứu (có thể nâng mức cao hơn – không giữ ở 25% như hiện tại) để phù hợp hơn với đặc thù của doanh nghiệp Việt Nam hoạt động chủ yếu bằng vốn vay.  

Tuy nhiên, việc nghiên cứu này cũng cần phải cân nhắc thêm do Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị đã đưa ra nhiệm vụ, giải pháp: “ … Nghiên cứu, xây dựng các quy định khắc phục tình trạng "vốn mỏng", chuyển giá, đầu tư "chui", đầu tư "núp bóng"….”

Tại buổi trao đổi với chuyên gia (dự án RARS) về vấn đề vốn mỏng có nên áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp Việt Nam hay không, chuyên gia cũng khuyến nghị, Việt Nam các doanh nghiệp thường vay nhiều, “mức thị trường” không phải là vay gấp 3 đến 4 lần vốn chủ sở hữu mà có thể có thể tới 7 đến 8 lần. Do đó cân nhắc khi đưa ra quy định về vốn mỏng áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp.

M.P

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực