Mặc dù tỷ suất TVM và tử vong trẻ em đã giảm đáng kể nhưng vẫn còn khoảng cách chênh lệch rất lớn giữa các vùng, miền. Tỷ suất TVM khu vực nông thôn cao gấp 3 lần khu vực thành thị. Tỷ suất TVTE khu vực nông thôn cao gấp 2 lần so với thành thị. Tử vong sơ sinh ở nông thôn miền núi cao gấp 2 lần so với nông thôn đồng bằng, ở dân tộc ít người cao hơn gấp 2 lần so với người Kinh. Chỉ số TVTE dưới 5 tuổi đặc biệt cao tại các khu vực Trung du và miền núi phía Bắc (33,9 ‰ ), Tây Nguyên (39,5 ‰ ). Bên cạnh đó, mỗi năm Việt Nam có khoảng 800 bà mẹ chết do các nguyên nhân liên quan đến thai sản. TVM ở Việt Nam cao cấp 2 lần Trung Quốc và Malaysia, gấp trên 10 lần Nhật Bản, Hàn Quốc.
Các chỉ số về phòng ngừa và điều trị vô sinh, CSSKSS vị thành niên, giảm phá thai và phá thai an toàn, phòng chống nhiễm khuẩn đường sinh sản, CSSKSS cho nhóm đặc thù như dân tộc thiểu số, người khuyết tật, người có HIV, người di cư và một số dân tộc có nguy cơ suy thoái… còn thiếu số liệu đánh giá và chưa được đầu tư thỏa đáng.
Theo Ths.BS Đinh Anh Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân.
Thứ nhất, sau một thời gian làm tốt công tác dự phòng và điều trị các bệnh truyền nhiễm, nhiễm trùng và một số nguyên nhân đơn giản khác, TVM, TVTE đã giảm đến mức khá thấp và sẽ có xu hướng giảm chậm lại. Để tiếp tục giảm, cần có những can thiệp đặc hiệu, có chuyên môn sâu nhằm khắc phục những nguyên nhân chủ yếu hiện nay như: sơ sinh nhẹ cân, non tháng, sơ sinh bệnh lý…
Thứ hai, do nhận thức của lãnh đạo các cấp về việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, cải thiện sức khỏe bà mẹ và giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em chưa thật sự đồng đều. Nhiều chỉ tiêu chưa được đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của các địa phương.
Bên cạnh đó, ngân sách nhà nước đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em trong những năm qua tuy được cải thiện nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu, trong khi nguồn viện trợ quốc tế ngày một giảm. Theo ước tính của các tổ chức quốc tế, để đạt được MDG4&MDG5, mỗi phụ nữ VN cần khoảng 4USD/phụ nữ có thai (khoảng 6 triệu USD). Tuy nhiên, mỗi năm ngân sách Trung ương chỉ phân bổ cho nội dung này 44-45 tỷ đồng, ngân sách địa phương hỗ trợ 4-5 tỷ đồng/năm. Do nguồn lực còn hạn chế nên các can thiệp cũng chỉ tập trung vào mục tiêu giảm TVM, TVTE, còn các mục tiêu khác của Dự án như phòng ngừa và điều trị vô sinh, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho vị thành niên, giảm phá thai và phá thai an toàn ... chưa được đầu tư thỏa đáng.
Mặc dù chủ yếu đầu tư cho việc giảm TVM-TVTE, nhưng vì ngân sách hạn hẹp, Bộ Y tế cũng chưa thể nhân rộng được các can thiệp hiệu quả nhằm tiếp tục giảm TVM và TVTE. Ví dụ, hiện nay trên cả nước có khoảng 6.000 thôn bản vùng đặc biệt khó khăn, có tỷ lệ đẻ tại nhà cao và cần có cô đỡ thôn bản, tuy nhiên, hiện mới chỉ có 1.545 cô đỡ thôn bản đã được đào tạo đang hoạt động. Hay như việc thực hiện các kỹ thuật mổ đẻ và truyền máu tại các vùng khó khăn là đặc biệt quan trọng để cứu sống bà mẹ và trẻ sơ sinh, tuy nhiên, trong số 225 huyện khó khăn về địa lý thì hiện mới chỉ có 151 bệnh viện có hai dịch vụ này, đạt 67%. Đặc biệt, trong số 62 huyện nghèo, chỉ có 39 bệnh viện thực hiện được mổ đẻ và truyền máu. Và mặc dù có tới 305 bệnh viện đa khoa huyện có lồng ấp sơ sinh (51,3%) nhưng chỉ có 160 bệnh viện có nuôi trẻ sơ sinh bằng lồng ấp (26,9%). Như vậy, có tới gần 50% bệnh viện đa khoa có lồng ấp nhưng không sử dụng với lý do chính là cán bộ chưa được đào tạo kỹ năng sử dụng lồng ấp để nuôi dưỡng trẻ sơ sinh nhẹ cân, non tháng.
Cũng do hạn hẹp về kinh phí nên công tác truyền thông chưa có chiều sâu đến từng hộ gia đình, nhất là ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa…
Cần sự quan tâm đầu tư hơn nữa
Để giải quyết các hạn chế trên, trong giai đoạn 2016-2020, Bộ Y tế đang đề xuất tiến hành Dự án Chăm sóc sức khỏe sinh sản (thuộc Chương trình MTQG về y tế giai đoạn 2016-2020). Các mục tiêu cụ thể của Dự án gồm: tăng cường sự tiếp cận của người dân và cải thiện chất lượng dịch vụ CSSK trẻ em, giảm tỷ suất TVTE dưới 5 tuổi xuống còn 16‰ , dưới 1 tuổi còn 11‰, giảm 30% hiệu số chênh lệch giữa đồng bằng về tỷ suất TVTE.