Nỗ lực đối phó hiệu quả với làn sóng COVID-19 tại Lào
|
Nhóm chuyên gia dịch tễ và xét nghiệm đang tổ chức tập huấn cho nhân viên y tế của tỉnh Champasak tại trụ sở Sở Y tế tỉnh ngày 15/5/2021. (Ảnh: PV) |
Trong những ngày qua, Đoàn chuyên gia của Bộ Y tế đã và đang tiếp tục nỗ lực giúp quốc gia láng giềng đối phó với đại dịch COVID-19. Theo lịch trình, Đoàn công tác đã đến thăm, khảo sát và làm việc tại các cơ sở: Làng Phonesavanh, Trung tâm cách ly tập trung KM 21, đơn vị xét nghiệm, Bệnh viện Pholthong, Bệnh viện dã chiến, Bệnh viện đa khoa tỉnh Champasak và Bệnh viện khu vực quân đội 106, tất cả thuộc địa bàn tỉnh Champasak trong các ngày từ 10/5 đến 16/5/2021. Cụ thể, đoàn cũng sẽ trực tiếp tham gia hội chẩn một số ca bệnh nặng với bác sĩ của các bệnh viện; tổ chức hội thảo chia sẻ kinh nghiệm phòng chống dịch; chẩn đoán điều trị và kiểm soát nhiễm khuẩn trên địa bàn tỉnh.
Tại Trung tâm cách ly tập trung KM21 trên địa bàn tỉnh Champasak, sau khi khảo sát thực tế, Đoàn chuyên gia của Bộ Y tế đã đề xuất cơ sở cách ly KM21 cần có khu riêng biệt để bệnh nhân dương tính tập trung chờ trước khi chuyển đi bệnh viện để điều trị COVID-19. Tại khu cách ly cần phải có phân luồng chỉ dẫn cho xe chở người đến cách ly. Có danh sách chính thức trả kết quả xét nghiệm âm tính cho khu cách ly để thuân tiện theo dõi đánh giá nguy cơ, giám sát. Tăng cường thêm cán bộ y tế tại cơ sở cách ly tập trung để đảm bảo yêu cầu kiểm tra, theo dõi sức khỏe thường xuyên của những người đang cách ly tại cơ sở.
Đối với công tác xét nghiệm tại đây, Đoàn công tác cũng đề xuất cần tập huấn và bổ sung nhân lực có thể thực hiện các kỹ thuật xét nghiệm vì tỉnh đảm nhận chức năng xét nghiệm cho các tỉnh lân cận. Cần củng cố năng lực thêm cho các phòng xét nghiệm các tỉnh trong khu vực, sẵn sàng đáp ứng dịch bệnh... Bên cạnh đó, cơ sở cách ly cần bố trí đủ phương tiện vận chuyển người đi cách ly; phương tiện vận chuyển phải đảm bảo an toàn trong phòng chống dịch. Trang bị đủ thùng đựng chất thải (có thành cứng, nắp đậy), khử khuẩn thùng đựng chất thải sau khi sử dụng để giảm nguy cơ lây nhiễm.
Tại Bệnh viện đa khoa Champasak là bệnh viện đa khoa tỉnh lớn nhất khu vực Tây Nam, thực hiện chỉ đạo và hỗ trợ chuyên môn cho 4 tỉnh lân cận. Trong đại dịch COVID-19, bệnh viện được giao trách nhiệm là đơn vị sàng lọc, cách ly các đối tượng có nguy cơ cao, nghi ngờ mắc COVID-19. Qua nắm bắt tình hình thực tế, Đoàn công tác đã đề xuất bệnh viện cần phân luồng đi cho toàn bộ người đi vào bệnh viện rõ ràng, tách biệt rõ luồng đi cho những người bệnh nghi ngờ mắc COVID-19. Đề xuất bệnh viện xây dựng kế hoạch chống dịch cho từng khoa, kế hoạch về nhân lực và kế hoạch thực hiện cách ly nhân viên, bệnh nhân và người nhà bệnh nhân trong khoa có bệnh nhân mắc COVID-19 để không ảnh hưởng đến việc điều trị cho bệnh nhân khác. Tăng cường chuyên môn, nghiệp vụ, mở các lớp tập huấn các kỹ năng phòng chống dịch, các kỹ năng cấp cứu cho bệnh nhân COVID-19. Trang bị thêm các trang thiết bị để giúp cho công tác điều trị và chăm sóc bệnh nhân, nhất là đảm bảo an toàn cho nhân viên y tế trong đại dịch COVID-19.
|
Nhóm chuyên gia y tế Việt Nam tại Bệnh viện Pholthong ngày 14/5/2021. (Ảnh: PV) |
Khảo sát tại Bệnh viện 106, Đoàn chuyên gia Bộ Y tế chia sẻ những kinh nghiệm trong công tác phòng ngừa lây nhiễm tại bệnh viện. Đoàn công tác đề xuất bệnh viện cần tổ chức tập huấn, diễn tập tình huống nhận bệnh nhân nhiễm COVID-19 tới điều trị. Tổ chức tập huấn cho cán bộ, nhân viên y tế về công tác phòng chống lây nhiễm, điều trị bệnh nhân COVID-19, thu gom chất thải, vệ sinh khử khuẩn môi trường. Các khoa phòng khác trong bệnh viện chưa có phòng đệm để chuyển bệnh nhân nghi ngờ đến trong thời gian chờ kết quả xét nghiệm COVID-19. Bệnh viện cần xây dựng kế hoạch/phương án về nhân lực, trang thiết bị, vật tư y tế, hóa chất khử khuẩn, trang thiết bị thu gom chất thải để chuẩn bị nhận bệnh nhân COVID-19 tới điều trị trong thời gian tới...
Đối với vấn đề về truy vết, Đoàn chuyên gia cũng đề xuất địa phương cần sử dụng đồng thời nhiều lực lượng truy vết để tiến hành truy vết thật nhanh theo các “mốc dịch tễ” phát hiện được. Người tham gia truy vết khi thực hiện nhiệm vụ phải thực hiện các biện pháp phòng tránh lây nhiễm. Phải thông báo rộng rãi trên truyền thông các “mốc dịch tễ” đễ người dân tự đến khai báo tại cơ sở y tế.
Thách thức lớn trước nguy cơ tái bùng phát dịch
Sau quá trình khảo sát thực tiễn và hỗ trợ trực tiếp cùng các đồng nghiệp Lào, Đoàn công tác đã có những đánh giá bước đầu trong công tác phòng chống dịch của tỉnh Champasak. Mặc dù toàn tỉnh đã huy động được sự vào cuộc đồng bộ hệ thống chính trị, các ban, ngành và chính quyền địa phương; Công tác chỉ đạo điều hành đồng bộ, xuyên suốt; Phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các đơn vị, bảo đảm lồng ghép chặt chẽ và nghiêm ngặt trong quản lý điều trị ca bệnh COVID-19. Tuy nhiên, Đoàn chuyên gia của Bộ Y tế đã có đánh giá những nguy cơ tái bùng phát dịch trở lại đối với tỉnh Champasak bởi vì:
Thứ nhất, nguy cơ nhập khẩu qua biên giới. Hiện tỉnh Champasak có 02 cửa khẩu quốc tế có lượng người nhập cảnh đông (giáp Campuchia, giáp Thái Lan), trong khi đó, chỉ xét nghiệm 1 lần với những người nhập cảnh (cụ thể, với những người âm tính thì chỉ thực hiện 01 lần xét nghiệm, khả năng bỏ lọt khá cao).
|
Nhóm chuyên gia dịch tễ và xét nghiệm đang tổ chức tập huấn cho nhân viên y tế của tỉnh Champasak tại khu cách ly của tỉnh ngày 15/5/2021. (Ảnh: PV) |
Thứ hai, nguy cơ xâm nhập từ các địa phương có dịch khác của Lào, trong đó, dịch tễ ca bệnh cộng đồng đầu tiên (ca bệnh số 101) ghi nhận tại tỉnh có nguồn lây từ ca bệnh 59 tại Viêng Chăn. Thời gian ca bệnh về tỉnh cùng lúc với Tết Lào là thời gian có lễ hội đã tạo điều kiện cho dịch lan rộng trên địa bàn.
Thứ ba, nguy cơ có thể từ các ca bệnh cộng đồng chưa truy vết, lấy mẫu và cách ly đầy đủ. Theo đó, các ca bệnh tiếp xúc gần đã kịp lây cho người tiếp xúc gần là gia đình họ, trong khi số lượng ca truy vết và lấy mẫu xét nghiệm dựa trên người tự nguyện đến xét nghiệm; Khi có vụ dịch trong cộng đồng, thời gian trả kết quả xét nghiệm chậm do số lượng mẫu vượt quá khả năng xét nghiệm của phòng thí nghiệm. Do đó, các ca dương tính chưa được điều trị cách ly vẫn có thể làm lây lan trong cộng đồng.
Thứ tư, nguy cơ lây nhiễm trong khu cách ly do số lượng người cách ly đông và số ca dương tính ngày càng tăng từ người từ nước ngoài về qua cửa khấu. Đồng thời, do quy trình lấy mẫu và trả mẫu xét nghiệm thường chậm (ít nhất 01 ngày mới có kết quả xét nghiệm để trả) làm tăng nguy cơ lây lan trong khu cách ly trong khi chờ kêt quả. Kết quả âm tính cũng không được cung cấp cho khu cách ly do đó không giám sát được hết các trường hợp chưa hoặc bỏ sót không được xét nghiệm.
Thứ năm, nguy cơ lây nhiễm từ người cách ly có thời gian ủ bệnh dài hơn 7 ngày. Quy trình xét nghiệm hiện nay xét nghiệm ngày thứ 7 có thể không phát hiện được các trường hợp có thời gian ủ bệnh dài hơn 7 ngày. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay có nhiều biến chủng SARS-CoV-2 có thể có thời gian ủ bệnh dài hơn 14 ngày.
Thứ sáu, nguy cơ lây nhiễm chéo trong các cơ sở điều trị: việc sàng lọc người cơ nguy cơ cao chưa triệt để tại các bệnh viện; việc thực hiện giãn cách trong bệnh viện chưa nghiêm; công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong bệnh viện một số nơi, một số kỹ thuật chưa phù hợp; chưa tiến hành xét nghiệm sàng lọc định kỳ cho cán bộ y tế khi có dịch trong cộng đồng để xác định ca bệnh chỉ điểm từ cộng đồng tới bệnh viện.
Thứ bảy, năng lực thu dung, quản lý điều trị chưa đủ đáp ứng khi dịch bùng phát và số lượng ca bệnh có tiến triển nặng tăng cao: nhân lực mỏng, mỗi ekip trực trong khu điều trị COVID-19 phải làm tới 1 tháng liên tục; năng lực chuyên môn về cấp cứu hồi sức (ví dụ: thở máy hạn chế số lượng máy thở ở cả 4 bệnh viện Đoàn tới chỉ có dưới 15 máy thở); thiếu phòng hồi sức cấp cứu tại các cơ sở điều trị COVID-19 cho bệnh nhân nhẹ; thiếu máy lọc máu hoặc có nhưng chưa biết sử dụng; danh mục thuốc chưa đủ chủng loại để điều trị hồi sức tích cực và bệnh nền…
Thứ tám, năng lực xét nghiệm, số lượng máy xét nghiệm ít (có 2 máy xét nghiệm phục vụ cho tỉnh Champasak và 4 tỉnh xung quanh) và chỉ định xét nghiệm hạn chế, chưa chủ động phát hiện những ca bệnh chỉ điểm trong cộng đồng và trong bệnh viện.
Giải pháp tăng cường sự an toàn trước và sau khi mở cửa trở lại
|
3 bác sĩ và điều dưỡng của Đoàn công tác Việt Nam chuẩn bị vào hội chẩn bệnh nhân cấp cứu tại Bệnh viện Pholthong. (Ảnh: PV) |
Trước những nguy cơ và thách thức hiện hữu, để tăng cường sự an toàn đối với tỉnh cho toàn tỉnh Champasak trước đại dịch COVID-19 trước và sau khi mở cửa trở lại, Đoàn chuyên gia y tế đã đề xuất các giải pháp để kịp thời đối phó với đại dịch COVID-19, bao gồm:
Về công tác giám sát dịch tễ, Đoàn công tác đề xuất địa phương cần tăng cường công tác điều tra truy vết thông qua tăng cường nhân lực và tập huấn cho các cán bộ đáp ứng nhanh RRT các cấp tỉnh đến huyện xã; Xây dựng kế hoạch đáp ứng với các tình huống dịch COVID-19 đặc biệt trong bối cảnh có nhiều biến chủng vi rút COVID-19 tăng khả năng lây lan và tăng nặng trên thế giới.
Đối với công tác xét nghiệm cần tăng cường năng lực và công suất xét nghiệm của tỉnh. Trang bị thêm máy chiết tách tự động để nâng cao công suất của máy xét nghiệm Realtime-PCR; Xét nghiệm sàng lọc định kỳ cho nhân viên phòng chống dịch, cán bộ y tế các cơ sở điều trị COVID-19 và các cơ sở y tế khác; Bổ sung chỉ định xét nghiệm cho bệnh nhân để đảm bảo tiêu chuẩn ra viện 2 lần xét nghiệm âm tính cách nhau 3 ngày; Mở rộng các đối tượng được xét nghiệm khi có ca bệnh trong cộng đồng…
Về công tác bảo đảm vệ sinh môi trường phòng ngừa lây nhiễm trong cộng đồng: Trang bị các thùng chứa rác có thành cứng và nắp đậy, túi chứa rác phù hợp theo qui định, khu lưu trữ rác thải tạm thời giêng biệt và khu xử lý rác thải lây nhiễm cần cách xa khu điều trị, khu dân cư; Cải thiện môi trường các khu cách ly tập trung phòng chống lây nhiễm chéo; Cập nhật kiến thức xử lý rác thải lây nhiễm từ bệnh nhân COVID-19…
Về công tác bảo đảm an toàn phòng chống COVID-19 trong các cơ sở khám chữa bệnh: Xây dựng và áp dụng Bộ tiêu chuẩn Bệnh viện an toàn phòng chống COVID-19; Thực hiện nghiêm công tác sàng lọc, phân luồng, cách ly trong bệnh viện; Tăng cường tập huấn và bảo đảm thực hiện đúng các quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn.
Về năng lực thu dung, quản lý điều trị ca bệnh: Tại các bệnh viện giao chức năng điều trị bệnh nhân vừa và nhẹ; cần bổ sung máy X-Quang di động; mỗi phòng bệnh ít nhất 1 máy đo SPO2. Trang bị 1 phòng cấp cứu, hồi sức cơ bản với máy monitor; bình ô xy, dụng cụ cấp cứu hồi sức tim mạch, hô hấp, nội khí quản và thuốc cấp cứu. Bổ sung các thuốc điều trị hồi sức cấp cứu cơ bản như adrenaline, noradrenaline, thuốc điều trị các bệnh nền tăng huyết áp, đái tháo đường,…
Tại các bệnh viện giao chức năng điều trị ca bệnh nặng, cấp cứu ngoại khoa: Tăng cường năng lực cho nhân viên y tế, trong đó tăng cường huấn luyện thực hiện các kỹ thuật điều trị chuyên sâu như đặt đường truyền tĩnh mạch trung tâm, theo dõi huyết động, lọc máu liên tục, ECMO; bổ sung bác sỹ chuyên khoa ngoại lồng ngực và tim mạch...