|
Ảnh minh họa ( Nguồn: Internet) |
Gánh nặng đang đè nặng lên vai các ngân hàng thương mại khi vừa phải huy động vốn ngắn, trung và dài hạn, vừa phải đảm bảo cung cấp vốn cho doanh nghiệp.
Doanh nghiệp FDI khát vốn
Tại Hội nghị cấp cao về kinh doanh tại Việt Nam diễn ra ngày 3/5, đại diện Tập đoàn Indochina Capital đã chất vấn Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu về việc Tập đoàn đã có cam kết về tín dụng với một số ngân hàng thương mại từ năm 2009. Trên cơ sở cam kết, Indochina Capital đã lập và triển khai một số dự án, hiện các dự án đã sử dụng hết vốn tự có, phần còn lại trông chờ vào vốn ngân hàng.
Thế nhưng, khi được hỏi, các ngân hàng thương mại đều từ chối giải ngân với lý do chính sách hạn chế tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng Nhà nước. Đại diện Indochina Capital cho rằng, việc chính sách mới được áp dụng hồi tố với những cam kết đã có từ trước, sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của các nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài.
Trả lời thắc mắc của Indochina Capital, Thống đốc Nguyễn Văn Giàu khẳng định, với ưu tiên hàng đầu là chống lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo hệ thống ngân hàng thương mại hạn chế cho vay với khu vực phi sản xuất. Theo đó, đảm bảo đến tháng 6/2011, tăng trưởng dư nợ cho vay với khu vực phi sản xuất của các ngân hàng thương mại không quá 22% và đến cuối năm nay, tỷ lệ này không quá 16%. Tuy nhiên, trước khi áp dụng chính sách này, tăng trưởng dư nợ cho vay phi sản xuất của các ngân hàng thương mại chỉ khoảng 18,7%. Việc đưa từ con số từ 18,7% xuống 16% vào cuối năm không phải là vướng mắc quá lớn với các ngân hàng. Dù vậy, Thống đốc Nguyễn Văn Giàu cũng khẳng định, việc một số doanh nghiệp, cũng như dự án gặp khó trong vay vốn ngân hàng là có thật, nhất là những dự án phi sản xuất.
Đói vốn không chỉ là trường hợp của Indochina Capital, mà là tình trạng chung của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước. Trong bối cảnh lạm phát tăng cao, việc ngân hàng cải thiện thanh khoản, giảm lãi suất càng trở nên khó khăn.
Cũng theo Ngân hàng Nhà nước, trong 4 tháng đầu năm, tín dụng tăng trưởng hơn 5%, so với mục tiêu dưới 20% là trong tầm kiểm soát, song vẫn phải thận trọng.
Trả lời phóng viên Báo Đầu tư sáng 4/5, bà Nguyễn Thị Hồng, Phó vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, hiện cơ quann này chưa có dự định nào về thay đổi chính sách tiền tệ.
Dù các chuyên gia kinh tế dự báo, lạm phát của Việt Nam có thể giảm vào quý III tới, song ngay cả khi khả năng này thành hiện thực, thì doanh nghiệp cũng chưa thể dễ dàng tiếp cận vốn vay từ các ngân hàng.
Tái cấu trúc thị trường tài chính
Lý giải tình trạng khát vốn triền miên của các doanh nghiệp, TS. Trần Du Lịch, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia cho rằng, nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng dựa trên tăng nợ, chứ không phải dựa trên vốn. Hiện hầu hết các doanh nghiệp có thói quen dùng nợ, vay nợ làm vốn. Điều này thể hiện qua việc: dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng hiện bằng 1,2 lần GDP, trong khi tiết kiệm chỉ chiếm 30% GDP. Việc tăng trưởng dựa trên tăng nợ tiềm ẩn nhiều bất ổn với cả các doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Theo ông Cao Sĩ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngắn hạn. Điều nguy hiểm ở chỗ, dư nợ cho vay ngắn hạn nhiều, nhưng khả năng thu hồi nợ không bền vững, gây rủi ro cho hệ thống ngân hàng. Muốn lành mạnh thị trường tài chính, cần tiết giảm mạnh đầu tư công. Nhà nước phải giảm đầu tư vào các doanh nghiệp quốc doanh, giảm đầu tư công và chú ý những dự án không có khả năng thu hồi thì ngân sách mới có thể duy trì được.
Đồng quan điểm, TS. Trần Du Lịch cho rằng, phải giảm gánh nặng cho hệ thống ngân hàng thương mại. Bởi hiện nay, không chỉ đảm bảo tín dụng cho nền kinh tế, trong nhiều thời điểm, hệ thống ngân hàng thương mại còn phải đảm bảo cho cả ngân sách thông qua việc mua trái phiếu chính phủ./.