(ĐCSVN)- Trong 6 tháng đầu năm 2013, trong bối cảnh tình hình khô hạn kéo dài và nghiêm trọng ở miền Trung và Tây Nguyên, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã đảm bảo cung ứng đủ điện cho phát triển kinh tế-xã hội đồng thời đảm bảo đủ nước cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của nhân dân.
Tình hình cung ứng điện:
Sản lượng toàn hệ thống trong tháng 6/2013 đạt 11,298 tỷ kWh, lũy kế 6 tháng năm 2013, sản lượng toàn hệ thống đạt 64,121 tỷ kWh, tăng 10,48% so với cùng kỳ năm 2012. Sản lượng điện sản xuất và mua của EVN trong tháng 6/2013 ước đạt 11,124 tỷ kWh, lũy kế 6 tháng năm 2013 đạt 62,155 tỷ kWh, tăng 9,58% so với cùng kỳ, trong đó điện sản xuất đạt 24,817 tỷ kWh. Điện thương phẩm tháng 6/2013 ước đạt 10,407 tỷ kWh, lũy kế 6 tháng năm 2013 ước đạt 55,673 tỷ kWh, tăng 10,13% so với cùng kỳ năm 2012. Điện thương phẩm nội địa tăng 9,96%, trong đó điện cho các ngành kinh tế (công nghiệp-xây dựng, thương mại-dịch vụ và nông lâm nghiệp) chiếm 58,2% điện thương phẩm và tăng trưởng 10,22%; điện cho quản lý và tiêu dùng dân cư chiếm 36,6% điện thương phẩm, tăng 10,12%.
|
Thủy điện Sơn La |
Sản lượng điện tiết kiệm ước thực hiện trong 6 tháng năm 2013 là 1.169,64 triệu kWh, bằng 2,1% điện thương phẩm. Công tác tiết kiệm điện (TKĐ) có nhiều chuyển biến mới, việc xây dựng kế hoạch và bố trí kinh phí thực hiện TKĐ được các đơn vị tiến hành khẩn trương và nghiêm túc từ đầu năm. Hoạt động tuyên truyền thực hiện TKĐ diễn ra với nhiều hình thức phong phú với nhiều chương trình thiết thực như: Gia đình tiết kiệm điện, Tuyến phố tiết kiệm điện, Tiết kiệm điện trong trường học, khuyến khích sử dụng bình đun nước bằng năng lượng mặt trời ở nhiều tỉnh/thành phố trong cả nước.
Nhìn chung, trong 6 tháng đầu năm, hệ thống điện có công suất dự phòng và được vận hành hợp lý. Các chỉ tiêu kinh doanh điện năng đạt kế hoạch. Tập đoàn cân bằng được tài chính. Công tác chỉ đạo điều hành sản xuất và cung ứng điện của Tập đoàn đã bám sát diễn biến tình hình cấp khí, than và thời tiết, thuỷ văn cũng như nhu cầu phụ tải điện từng tuần, từng tháng, từng khu vực. Do đó, hệ thống điện được vận hành đạt hiệu quả kinh tế, khai thác hợp lý cơ cấu các nguồn điện trong điều kiện thiếu hụt công suất và sản lượng từ các hồ thuỷ điện khu vực miền Trung và truyền tải cao từ Bắc vào Nam. Đặc biệt, EVN đã khai thác tối ưu các hồ thuỷ điện sát với nhu cầu cấp nước cho sản xuất vụ đông xuân ở đồng bằng Bắc bộ, vụ đông xuân và vụ hè thu ở miền Trung và Tây Nguyên. Trong điều kiện khu vực miền Trung và Tây Nguyên xảy ra khô hạn nghiêm trọng, Tập đoàn đã phối hợp chặt chẽ với chủ các nhà máy thuỷ điện ngoài EVN và chính quyền địa phương đảm bảo cung cấp điện phục vụ phát triển kinh tế xã hội, đồng thời đảm bảo đủ nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt và bảo vệ môi trường phía hạ du các hồ thuỷ điện A Vương, Đăk Mi 4, Sông Ba Hạ, Sông Hinh, An Khê - KaNak, Đa Nhim-Hàm -Thuận-Đa Mi, Đại Ninh, Đồng Nai 3, 4...
Về lưới điện:
- Trong 6 tháng đầu năm 2013, EVN đã đóng điện 20 công trình lưới 220-500kV, 43 công trình lưới 110kV với tổng chiều dài đường dây (ĐD) là 794km, tổng dung lượng trạm biến áp (TBA) trên 5.500 MVA, kịp thời tăng cường năng lực hệ thống truyền tải điện và giải quyết quá tải nhiều khu vực; khởi công được 11 công trình lưới điện 500 - 220kV.
- Đối với các công trình trọng điểm cấp điện cho miền Nam: Đã hoàn thành nâng công suất máy AT2 TBA 500kV Phú Lâm lên 900 MVA; ĐD 500kV Pleiku - Mỹ Phước - Cầu Bông và các công trình đồng bộ đang được khẩn trương thi công với mục tiêu hoàn thành cuối năm 2013. Đã hoàn thành lắp đặt 01 bộ tụ bù dọc tại TBA 500kV Đăk Nông và đang tiến hành lắp đặt tại TBA 500kV Pleiku, Di Linh và điều động các bộ tụ 1500A lắp đặt cho ĐD Nho Quan - Hà Tĩnh, dự kiến hoàn thành trong Quý III/2013.
- Lưới điện đấu nối với các dự án nguồn điện: đã hoàn thành các công trình đấu nối Nhiệt điện Vũng Áng 1, Nhiệt điện Nghi Sơn 1, Thủy điện Bản Chát, Srepok 4A... Đang tập trung thực hiện các công trình đấu nối Trung tâm Nhiệt điện Mông Dương, Thủy điện Đăk Drinh và các hạng mục phục vụ chạy thử nghiệm Nhiệt điện Vĩnh Tân 2.
- Các công trình cấp điện cho TP. Hà Nội: Hoàn thành các công trình ĐD 220kV Vân Trì - Sóc Sơn, TBA 220kV Vân Trì, lắp máy biến áp (MBA) 220kV-250MVA tại TBA 500kV Thường Tín và các tuyến 110kV đấu nối.
Một số nhiệm vụ công tác 6 tháng cuối năm và tháng 7/2013:
Trong 6 tháng cuối năm 2013, Tập đoàn đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn, đó là: (i) Nguồn cung cấp khí để phát điện ở miền Nam bị cắt giảm (trong 14 ngày đầu tháng 7: ngừng toàn bộ khí PM3 cung cấp cho Nhà máy điện Cà Mau 1&2 với tổng công suất 1.500 MW; từ ngày 7 - 6/9: khí Nam Côn Sơn giảm còn 5,5 triệu m3/ngày); (ii) Từ Quý III, tập trung thi công đấu nối ĐD 500kV Pleiku - Mỹ Phước - Cầu Bông; (iii) Vào các tháng Quý IV, các nhà máy thuỷ điện khu vực miền Nam phải đảm bảo tích nước cao nhất, chuẩn bị cho cấp điện miền Nam trong mùa khô 2014; (iv) Miền Bắc và miền Trung bước vào mùa mưa, bão với những diễn biến và ảnh hưởng khó lường đối với tất cả các khâu sản xuất, truyền tải và phân phối điện.
Với các yếu tố trên, công tác vận hành nguồn và lưới điện trong các tháng cuối năm sẽ rất phức tạp, đặc biệt trên tuyến truyền tải 500kV Bắc-Nam và hệ thống phân phối điện miền Nam. Tập đoàn xác định mục tiêu tổng quát 6 tháng cuối năm của toàn Tập đoàn là: Đảm bảo cung cấp đủ điện, an toàn cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, hoàn thành đạt và vượt các nhiệm vụ chỉ tiêu kế hoạch năm 2013. Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cho sản xuất và cung ứng điện năm 2014.
Riêng trong tháng tháng 7/2013: dự kiến phụ tải của hệ thống đạt 384 triệu kWh/ngày, công suất phụ tải lớn nhất dao động từ 19.900 - 20.100 MW. Để đảm bảo cung cấp điện an toàn trong thời gian ngừng toàn bộ khí PM3, sẽ huy động các nhà máy điện hợp lý trong điều kiện vận hành thị trường điện cạnh tranh theo đúng phương thức được duyệt; các Công ty Truyền tải điện và các Công ty Điện lực bảo đảm vận hành an toàn lưới điện 220-500kV, nhất là ĐD 500 kV Bắc - Nam và lưới điện phân phối khu vực miền Nam; các Tổng Công ty Điện lực/Công ty Điện lực đảm bảo đủ điện cho các kỳ thi đại học, cao đẳng; chủ động, chuẩn bị sẵn sàng các phương án phòng chống bão lụt; thực hiện phương án bảo vệ và vận hành an toàn các hồ thuỷ điện để đối phó kịp thời với các diễn biến bất thường của thời tiết và thiên tai.