Thực trạng nợ công Hy Lạp

Thứ ba, 05/04/2011 17:36

(ĐCSVN) - Hy Lạp là nước có mức nợ công thuộc loại nhiều nhất tại châu Âu so với quy mô nền kinh tế và được ví như "một con bệnh đang trong thời kỳ nguy kịch". Mức độ tín nhiệm tài chính của Hy Lạp đã bị tụt xuống hạng BBB - đồng nghĩa với khả năng đi vay tiền từ bên ngoài trở nên khó khăn.

 
Biểu tình tại Hy Lạp phản đối Chính phủ  (Ảnh tư liệu)
Nợ công của Hy Lạp - vượt quá tầm kiểm soát

Năm 2009, tổng số nợ công của Hy Lạp lên tới 300 tỷ euro, chiếm 124 % GDP, thâm hụt ngân sách lên tới hai con số, trong khi tăng trưởng kinh tế vẫn tiếp tục âm. Năm 2010, Hy Lạp đang phải đối mặt với 3 vấn đề chính, có liên quan chặt chẽ với nhau:

Thứ nhất, uy tín của Chính phủ Hy Lạp bị suy giảm nặng nề: Hy Lạp vay nợ rất nhiều trên các thị trường tài chính để đảm bảo thanh khoản cho bội chi ngân sách. Giới hạn bội chi ngân sách cho phép trong khu vực euro chỉ là 3% GDP, trong khi đó mức này của Hy Lạp năm 2009 theo dự báo mới nhất lên tới 13,6%, và thậm chí có thể tăng tới trên 14% GDP. Để che giấu việc chi tiêu quá tay trong nhiều năm của mình, Chính phủ Hy Lạp đã thực hiện báo cáo số liệu không nhất quán và sai lệch, đưa ra nhiều khoản mục bất thường trong ngân sách.

Thứ hai, thanh khoản sụt giảm: Nợ còn hạn của Hy Lạp lên tới gần 400 tỷ đô la Mỹ, trong đó riêng nợ đến hạn năm 2010 đã lên tới 73 tỷ đô la Mỹ. Lãi suất Hy Lạp phải trả cho các khoản vay nợ lên tới mức kỷ lục cao, trên 9% đối với các khoản vay có kỳ hạn. Tháng 3/2011, Cơ quan xếp hạng tín dụng Moody hạ xếp hạng nợ của Hy Lạp xuống mức B1 từ mức Ba1 và cho biết sẽ có thể hạ thêm bởi xét đến rủi ro đối với chương trình thực hiện mục tiêu chính sách tài khóa của Hy Lạp và khó cải tổ hệ thống y tế cũng như các công ty nhà nước. Dù Hy Lạp có thực hiện được kế hoạch điều chỉnh kéo dài 3 năm, nợ của Hy Lạp đến năm 2013 vẫn lên mức 158% GDP, mức cao khó duy trì.

Thứ ba, nguy cơ vỡ nợ cao: Hy Lạp đang đối mặt với 2 vấn đề thâm hụt cùng một lúc, đó là thâm hụt ngân sách (vượt hơn 13% GDP năm 2010) và thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai (trung bình vào khoảng 9% GDP) so với mức trung bình của toàn khu vực Eurozone là 1%. Cả hai mức thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân vãng lai của Hy Lạp đều vượt quá trần quy định cho phép của Liên minh Tiền tệ và Kinh tế châu Âu (EMU), đặc biệt là Hiệp ước Bình ổn và Tăng trưởng của Liên minh châu Âu (EU) với quy định trần thâm hụt ngân sách 3% GDP và trần nợ nước ngoài 60% GDP. Phần lớn thâm hụt trên tài khoản vãng lai phải bù đắp bằng nguồn vốn đầu tư gián tiếp chứ không phải vốn đầu tư trực tiếp, nghĩa là Hy Lạp gần như hoàn toàn kỳ vọng vào bong bóng giá cổ phiếu và các khoản vay nước ngoài để thu hút ngoại tệ bù đắp cho tài khoản vãng lai. Một khi bong bóng cổ phiếu vỡ và không thể vay thêm tiền, Hy Lạp đứng trước rủi ro vỡ nợ lớn.

Cảnh báo từ khủng hoảng nợ công của Hy Lạp

Từ khi tham gia sử dụng đồng tiền chung châu Âu năm 2001 cho đến năm 2008 - khi khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra, ngân sách quốc gia Hy Lạp luôn nằm trong tình trạng thâm hụt với mức trung bình 5% GDP/năm (mức trung bình cho toàn khu vực châu Âu là 2%/năm). Với mức thâm hụt ngân sách của Hy Lạp lên tới 15,4% GDP cuối năm 2009, mức cao chưa từng có trong khu vực đồng tiền chung châu Âu (cao hơn gấp đôi so với mức 6,7% được tính trước đó) đã khiến cho trái phiếu chính phủ Hy Lạp bị các tổ chức định mức tín dụng lớn của thế giới đánh tụt hạng. Những nghi ngờ về việc chính phủ Hy Lạp đã làm sai lệch số liệu thống kê và cố tình che giấu mức độ nợ thật sự đã khiến các nhà đầu tư giảm sút lòng tin nặng nề vào quốc gia này. Trước khủng hoảng, lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Hy Lạp cao hơn từ 10 đến 40 điểm so với trái phiếu cùng kỳ hạn của Đức nhưng khi khủng hoảng nợ nổ ra, khoảng cách này tăng lên tới 400 điểm (1/2010) - mức kỷ lục tại thời điểm đó. Để bù đắp cho khoản thâm hụt kép này, Hy Lạp đã đi vay trên thị trường vốn quốc tế và trong suốt một thập kỷ trước khi diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, Chính phủ Hy Lạp đã vay mượn khá nặng nề từ bên ngoài, trở thành một con nợ triền miên với tổng số nợ nước ngoài lên tới 115% GDP năm 2009.

Khi Hy Lạp lâm vào khủng hoảng nợ, mức tín nhiệm của trái phiếu Hy Lạp bị hạ, chi phí lãi vay tăng lên cho các khoản vay mới và chi phí bảo hiểm các khoản tiền vay tăng mạnh. Điều này tác động xấu đến tâm lý nhà đầu tư trong và ngoài nước, khiến cho kỳ vọng về sự hồi phục kinh tế sẽ tiếp tục thấp. Theo dự báo của Ngân hàng Trung ương Hy Lạp (BOG), nền kinh tế Hy Lạp sẽ suy giảm ít nhất 3% trong năm 2011. Tỷ lệ thất nghiệp tăng trong khi lạm phát hiện đang trên mức 5% (tháng 3/2011).

Khi niềm tin của nhà đầu tư (trong nước và nước ngoài) đối với triển vọng của nền kinh tế và độ tín nhiệm của chính phủ bị tổn hại thì khó có thể xây dựng lại. Chi phí cho một hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng của Hy Lạp trước khi được cứu trợ khoảng 12%, sau đó giảm xuống 7% khi được cứu trợ vào đầu năm 2010, hiện tăng trở lại lên trên 10% (nghĩa là phải tốn khoảng 1 triệu EUR để bảo hiểm cho một khoản nợ 10 triệu EUR).

Sự phụ thuộc quá nhiều của Hy Lạp vào nguồn tài trợ nước ngoài đã khiến cho nền kinh tế nước này trở nên dễ tổn thương trước những thay đổi trong niềm tin của giới đầu tư. Sự nghi ngờ của giới đầu tư lên đến đỉnh điểm khi Cơ quan Thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) công bố ước tính về thâm hụt ngân sách của Hy Lạp là 13,6% GDP - cao hơn hẳn so với con số ước tính được chính phủ Hy Lạp đưa ra trước đó. Hy Lạp chính thức kêu gọi hỗ trợ tài chính từ Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và các quốc gia thành viên Eurozone. Bộ trưởng Tài chính các nước Eurozone đã quyết định hỗ trợ tài chính dành cho Hy Lạp với mức hỗ trợ 110 tỷ euro trong vòng 3 năm 2011-2013 (lãi suất ưu đãi là 5%), trong đó các nước thuộc Eurozone bỏ ra 80 tỷ euro và 30 tỷ còn lại là IMF cho vay. Đổi lại, Hy Lạp phải cam kết cắt giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 11% GDP (2011) và xuống dưới mức quy định 3% của EU vào năm 2013.

Không thể phủ nhận rằng để có vốn tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá, việc vay nợ nước ngoài là cần thiết. Nhiều quốc gia có những bước phát triển kinh tế đáng nể như: Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc đều phải vay nợ nước ngoài. Tuy nhiên, chính phủ các quốc gia đó chỉ vay tiền để đầu tư vào hạ tầng cơ sở thiết yếu nhất để phục vụ phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Tiền vay được họ quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả. Hạ tầng cơ sở ở những quốc gia này một khi đã được xây dựng thì chất lượng rất tốt, được quy hoạch với tầm nhìn dài hạn chứ không phải ngay lập tức hay một thời gian ngắn sau đã phải làm lại, cải tiến hay mở rộng. Các quốc gia này không vay tiền nước ngoài để dùng vào những dự án nhỏ lẻ, không thực sự đem lại nhiều giá trị lợi ích xã hội. Họ cũng không dùng những món nợ phải trả trong tương lai này để theo đuổi những siêu dự án trong khi hạ tầng kỹ thuật thiết yếu trong nước còn chưa đầy đủ...

Khủng hoảng nợ Hy Lạp là một cảnh báo cho các quốc gia về bội chi ngân sách và việc sử dụng các khoản nợ công. Vấn đề đặt ra không phải là nợ bao nhiêu phần trăm GDP mà các khoản vay nợ đó được dùng vào mục đích gì? hiệu quả đạt được ra sao? khả năng trả nợ thế nào? Cuộc khủng hoảng nợ sẽ làm chậm lại đà phục hồi của kinh tế toàn cầu và đặc biệt là kinh tế châu Âu. Dù Hy Lạp không phải là một nền kinh tế lớn ở châu Âu và quan hệ thương mại, dòng vốn đầu tư giữa Việt Nam không lớn, nhưng Việt Nam sẽ chịu tác động gián tiếp nếu cuộc khủng hoảng này nổ ra. Cuộc khủng hoảng nợ của châu Âu có thể gây gián đoạn thương mại toàn cầu, ảnh hưởng tới nhu cầu xuất khẩu của châu Á, trong đó có Việt Nam và khiến “các nguồn tiền nóng” chảy vào khu vực và dẫn đến tình trạng bong bóng tài sản.

Tóm lại, vấn đề rút ra ở đây là không nên tiêu quá nhiều, nhưng bao nhiêu là quá nhiều thì mỗi quốc gia một khác. Nếu cho rằng không chi tiêu nhiều là tránh xa được khủng hoảng là không đúng bởi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á xảy ra năm 1997 khi Thái Lan chỉ có khoản nợ khoảng 15% GDP. Do đó, vấn đề đặt ra là phải luôn ý thức và kiểm soát mức nợ phù hợp với nền kinh tế đất nước. Cơ hội được tiếp cận dễ dàng nguồn tín dụng rẻ từ khi gia nhập Eurozone đã khiến cho chính phủ Hy Lạp chi tiêu quá tay mà quên mất những nghĩa vụ nợ phải trả trong tương lai. Đây là bài học rõ ràng cho những quốc gia đang phát triển nóng theo đuổi những con số đẹp về chỉ tiêu tăng trưởng, nếu cứ tiếp tục đi vay và sử dụng tiền vay như Hy Lạp đã làm trong thập kỷ vừa qua, chắc chắn di sản có thể để lại cho tương lai sẽ là một món nợ khổng lồ./.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực