Theo đó, Kế hoạch xây dựng Dự án Luật nhằm nghiên cứu, xây dựng Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) nhằm thay thế Luật hiện hành, tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt trong việc thực thi pháp luật về di sản văn hóa. Đồng thời tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả trong bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa; tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Việc xây dựng Dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) phải tuân thủ đúng trình tự, thủ tục, bảo đảm hiệu quả và tiến độ trong quá trình triển khai; thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chính sách của Đảng, quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; bám sát nội dung đề nghị xây dựng chính sách của dự án Luật đã được thông qua; trường hợp phát sinh chính sách mới, cần thực hiện đánh giá tác động chính sách mới được bổ sung...
|
Tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa cùng các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành là hết sức cần thiết để bắt kịp sự vận động và biến chuyển của xã hội. (Ảnh minh họa) |
Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Luật Di sản văn hóa được Quốc hội khóa X thông qua tại kỳ họp thứ 9, ngày 29/6/2001, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa của Việt Nam. Luật được sửa đổi, bổ sung một số điều tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII, ngày 18/6/2009. Trong đó, một số hạn chế, bất cập khi thực thi Luật đã cơ bản được giải quyết, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh sự nghiệp bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa, bảo đảm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sau 20 năm Luật Di sản văn hóa được ban hành và hơn 10 năm được sửa đổi, bổ sung, sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đã và đang được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm, ngày càng được sự ủng hộ của đông đảo nhân dân ở khắp mọi miền đất nước. Hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ngày càng hiệu quả, nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho cộng đồng nơi có di sản hoặc nắm giữ, thực hành di sản, góp phần thu hút du lịch...; tạo thêm thế, lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội của từng đơn vị, địa phương và đất nước.
|
Hoạt động trải nghiệm tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. (Ảnh minh họa) |
Trên cả nước đã xếp hạng trên 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố; 3.591 di tích quốc gia và 123 di tích quốc gia đặc biệt; có trên 40.000 di tích đã được kiểm kê theo quy định của Luật Di sản văn hóa. Khoảng 70.000 di sản văn hóa phi vật thể trên cả nước được kiểm kê, 416 di sản được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Các di sản văn hóa thế giới của Việt Nam được UNESCO công nhận, ghi danh gồm: 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới; 14 di sản văn hóa phi vật thể.
Hệ thống bảo tàng gồm 187 bảo tàng (với 128 bảo tàng công lập và 59 bảo tàng ngoài công lập). Nhiều sưu tập hiện vật và di vật, cổ vật quý giá mang đặc trưng văn hóa của địa phương, vùng miền, quốc gia… đang được bảo quản, trưng bày và phát huy giá trị. Có 238 hiện vật, nhóm hiện vật đã được công nhận là bảo vật quốc gia qua 10 đợt xét duyệt.
Tuy nhiên, trước yêu cầu, đòi hỏi cấp bách từ thực tế, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa cũng dần bộc lộ một số hạn chế, bất cập cả về nội dung và hình thức trong từng lĩnh vực cụ thể. Do đó, việc tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa cùng các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành là hết sức cần thiết để bắt kịp sự vận động và biến chuyển của xã hội. Đồng thời góp phần điều chỉnh, cụ thể hóa những vấn đề còn vướng mắc, tạo hành lang pháp lý thuận lợi nhất cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc.../.