Tại chương trình "Phá bỏ định kiến và kiến tạo bình thường mới cho chủ đề sức khỏe sinh sản thanh thiếu niên" vừa diễn ra, ông Phạm Vũ Hoàng, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) cho biết, mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định về tư vấn và cung ứng dịch vụ dân số, kế hoạch hóa gia đình cho vị thành niên/thành niên, nhưng vẫn còn một số bất cập, hạn chế, là những rào cản đến sự phát triển toàn diện của đối tượng này.
Hiện nay, chương trình giáo dục về sức khỏe sinh sản trong và ngoài nhà trường chưa đầy đủ và phù hợp với sự phát triển trong tình hình mới; tiếp cận thông tin, cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành về sức khỏe sinh sản còn hạn chế.
Cùng với đó, tình trạng quan hệ tình dục sớm, quan hệ tình dục không an toàn, mang thai ngoài ý muốn và phá thai không an toàn, nguy cơ lây nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình dục… của vị thành niên/thanh niên vẫn chưa được cải thiện đáng kể, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng sâu, các khu công nghiệp tập trung…
|
Cần có nhiều buổi sinh hoạt chuyên đề về các chủ đề “Đồng hành cùng tuổi dậy thì", nhiều chương trình, hoạt động giúp các em học sinh, sinh viên cải thiện kỹ năng chăm sóc sức khỏe sinh sản, phòng tránh có thai ngoài ý muốn... (Ảnh minh họa. Ảnh: ĐT) |
Theo nghiên cứu về hành vi sức khỏe học sinh do Bộ Y tế và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thực hiện, trong 6 năm, tỷ lệ quan hệ tình dục lần đầu trước 14 tuổi tăng gấp hai lần, từ 1,45% năm 2013 lên 3,51% năm 2019. Trong số học sinh từng quan hệ tình dục, hơn 42% có sử dụng bao cao su và 44% sử dụng các phương pháp ngừa thai khác, thấp hơn so với năm 2013.
"Nhu cầu chưa được đáp ứng về các biện pháp tránh thai tuy đã giảm, ở nhóm nữ từ 15-24 tuổi đã giảm từ 35% năm 2011 xuống còn 29,6% năm 2017, nhưng vẫn còn cao", ông Phạm Vũ Hoàng Hoàng cho hay.
Cùng quan điểm, bà Nguyễn Lê Hoa, Giám đốc Tổ chức dịch vụ dân số quốc tế (PSI) chia sẻ, những giá trị, chuẩn mực và hành vi tình dục của người trẻ không ngừng thay đổi, nhưng việc giáo dục về sức khỏe sinh sản – tình dục (SKSS – SKTD) ở nước ta còn nhiều khoảng trống và chưa theo kịp với nhu cầu và tình hình thực tế khi mà giới trẻ thiếu không gian an toàn và đủ cởi mở để có thể bày tỏ những nhu cầu, suy nghĩ và quan điểm của mình.
Với thế hệ thanh niên đông đảo khoảng 22 triệu người trong độ tuổi từ 10-24, những định kiến và sự e ngại này trở thành rào cản hành trình người trẻ tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ chăm sóc SKSS-SKTD và dẫn đến những hậu quả tiêu cực như mang thai ngoài ý muốn, phá thai không an toàn.
Bà Nguyễn Lê Hoa cho biết, theo ước tính có trên 10% nữ giới chưa kết hôn trong độ tuổi từ 15 - 24 đã từng ít nhất một lần mang thai ngoài ý muốn. “Phá bỏ định kiến và bình thường hóa chủ đề tình dục, sức khỏe sinh sản thanh thiếu niên là hành động cấp thiết và cần sự chung tay của toàn xã hội - từ gia đình, nhà trường tới bản thân mỗi cá nhân nhằm hướng tới mục tiêu giảm thiểu tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn trong lứa tuổi thanh thiếu niên”- bà Nguyễn Lê Hoa nhấn mạnh.
Theo các chuyên gia, mang thai ở tuổi vị thành niên làm tăng nguy cơ dị tật thai nhi cao hơn phụ nữ trong độ tuổi sinh sản (từ 18 đến 35 tuổi). Kèm theo đó là các nguy cơ dễ đẻ non, sảy thai, suy dinh dưỡng, stress, trầm cảm...
Bên cạnh đó, việc làm mẹ quá sớm sẽ trở thành gánh nặng lớn khi trẻ chưa sẵn sàng tâm lý, kỹ năng sống hay kinh tế. Nguy hiểm hơn, nhiều thanh thiếu niên không dám đến cơ sở y tế mà đi phá thai "chui", không đảm bảo vô khuẩn có thể gây viêm nhiễm, xuất huyết, tai biến sản khoa...
Từ thực tiễn đó, nhiều chuyên gia cho rằng cần phải xây dựng các hoạt động can thiệp nhằm tăng cường tư vấn và cung ứng dịch vụ dân số, sức khỏe sinh sản cho vị thành niên/thành niên, phấn đấu đạt mục tiêu giảm 2/3 số vị thành niên/thành niên mang thai ngoài ý muốn, góp phần thực hiện thành công Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Bên cạnh đó, triển khai thí điểm và mở rộng chương trình giáo dục cho nam, nữ trước khi kết hôn. Tổ chức các sự kiện thanh nhằm khuyến khích thanh niên nên kết hôn trước 30 tuổi, đẻ đủ hai con trước 35 tuổi. Thí điểm và từng bước mở rộng các mô hình can thiệp phòng tránh vô sinh; phòng tránh các bệnh lây truyền qua đường sinh sản. Hướng dẫn đổi mới sinh hoạt chuyên đề về các chủ đề “Đồng hành cùng tuổi dậy thì” cho các em học sinh THCS và THPT, cải thiện kỹ năng chăm sóc sức khỏe sinh sản, phòng tránh có thai ngoài ý muốn…/.