Nhọc nhằn gieo “con chữ” ở các điểm trường vùng cao Quảng Nam

Thứ năm, 27/08/2015 18:08

Tỉnh Quảng Nam có 9 huyện miền núi trải dài trên một diện tích rộng lớn, là nơi sinh sống của nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các em học sinh mẫu giáo và tiểu học vùng cao đến lớp, ngay tại các thôn bản luôn có các điểm trường. Những năm qua chất lượng giáo dục ở khu vực miền núi Quảng Nam đã từng bước được nâng lên, trong đó có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ các thầy, cô giáo cắm bản.

 

 Ảnh minh họa. (Nguồn: baobackan.org.vn)


Nam Trà My là huyện miền núi cao của tỉnh Quảng Nam được hưởng Chương trình 30a của Chính phủ. Từ trung tâm huyện Nam Trà My đến xã Trà Dơn có chiều dài khoảng 17 km đường rừng. Chúng tôi đến thăm Trường tiểu học xã Trà Dơn đúng vào ngày các em học sinh nơi đây đến trường để nhận lớp trước khi bước vào năm học mới.

Thầy giáo Nguyễn Anh Tuấn - Hiệu trưởng Trường tiểu học xã Trà Dơn cho biết, năm học này nhà trường có 521 học sinh, trong đó đa phần là con em đồng bào dân tộc Cadong. Năm học này, nhờ các thầy, cô giáo cũng như chính quyền địa phương đến tận từng hộ gia đình để vận động con em đi học, nên trong buổi nhận lớp hôm nay phụ huynh đã đưa con em mình đến trường rất đầy đủ. Trường tiểu học xã Trà Dơn có 34 lớp học, gồm 1 điểm trường chính và 14 điểm trường phụ nằm ngay tại các thôn, bản. Điểm trường chính được xây dựng kiên cố từ năm 2010 có khu ở nội trú cho giáo viên và học sinh từ lớp 3 đến lớp 5. Còn tại các điểm trường phụ dành cho các em học sinh lớp 1 và lớp 2 nhằm đưa “con chữ” đến gần hơn với con em đồng bào. Trường tiểu học xã Trà Dơn cách điểm trường phụ xa nhất là 22 km và phải đi bộ mất 1 ngày đường mới tới nơi. Gọi là điểm trường nhưng thực ra chỉ là một lớp học gồm hơn chục học sinh do 1 hoặc 2 giáo viên phụ trách. Trước đây, điều kiện khó khăn nên những điểm trường phụ ở các bản làng chỉ được dựng lên tạm bợ, các bức tường của lớp học được làm bằng những tấm phên tranh tre, còn phần mái được lập bằng lá lò ô. Năm học mới này, những lớp học này vừa được tu sửa vững chắc hơn với việc phụ huynh tham gia đóng góp gỗ để dựng lớp, còn huyện hỗ trợ kinh phí mua mái tôn để lợp.

Lên xã Trà Dơn công tác được 3 năm, cô giáo Nguyễn Thị Hồng Vy, 25 tuổi đã xung phong đi dạy ở 3 điểm trường khác nhau. Cô giáo Vy cho biết, thời gian đầu còn rất bỡ ngỡ nhưng bây giờ cô và 1 giáo viên tiểu học khác phụ trách điểm trường ở thôn 2 của xã đã dần quen với những khó khăn của cuộc sống vùng cao. Do đường xá đi lại khó khăn nên các cô ở luôn tại điểm trường và thường khoảng 1 tháng mới xuống núi để bắt xe về thăm gia đình ở dưới xuôi. Không có sóng điện thoại, buổi tối phải soạn những trang giáo án bên cạnh những ánh đèn dầu hoặc ánh điện chập chờn từ những máy phát điện nhỏ đặt ngoài suối là một trong rất nhiều khó khăn, thiếu thốn của các thầy, cô giáo cắm bản. Do đời sống của đồng bào Cadong ở những thôn, bản vùng cao chủ yếu là sản xuất tự cung tự cấp nên có rất ít hàng hóa để trao đổi mua bán. Hàng tháng, các cô giáo lại phải nhờ người dân cõng từng bao gạo và các nhu yếu phẩm từ dưới trung tâm xã đưa lên. Khó khăn là vậy, nhưng theo các cô giáo điều đáng mừng là đồng bào dân tộc ở đây đã ý thức được vai trò của con chữ, nên rất nhiệt tình trong việc đưa con em đi học.

Huyện Nam Trà My có gần 172 điểm trường mẫu giáo và tiểu học tại các thôn bản. Để chuẩn bị cho năm học mới 2015- 2016, huyện đã đầu tư gần 440 triệu đồng để hỗ trợ các điểm trường lợp lại mái tôn và đầu tư hơn 1,1 tỷ đồng mua sắm trang thiết bị dạy học cho các trường. Vẫn còn đó biết bao khó khăn vất vả, nhưng với lòng yêu nghề, yêu trẻ, các thầy cô giáo nơi đây luôn sẵn sàng đến với những bản làng xa xôi giữa núi rừng Trường Sơn đại ngàn để mang cái chữ đến với các em nhỏ./.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực