Chỉ thị của Ban Bí thư khoá III về công tác giáo dục trong ba năm 1968-1970

Thứ hai, 28/11/2011 11:27

Ngày 14/2/1969, Ban Bí thư khoá III đã ban hành Chỉ thị số 169 CT/TW về công tác giáo dục trong ba năm 1968-1970. Sau đây là toàn văn Chỉ thị:

Trong ba năm qua, mặc dù chiến tranh phá hoại do đế quốc Mỹ gây ra ngày càng ác liệt, sự nghiệp giáo dục của ta vẫn phát triển mạnh mẽ và đã góp phần nâng cao trình độ hiểu biết, năng lực lao động và chiến đấu của nhân dân ta.

Đến nay, đã có 5 triệu người đi học từ mẫu giáo, vỡ lòng đến các cấp phổ thông và bổ túc văn hoá. Giáo dục đang trở thành sự nghiệp của quần chúng. Phong trào thi đua dạy tốt và học tốt ngày càng phát triển. Tuy nhiên, so với yêu cầu trước mắt và lâu dài của sự nghiệp cách mạng, công tác giáo dục còn nhiều thiếu sót. Đến nay, vẫn còn gần một triệu thiếu niên chưa được học hết cấp II; số thanh niên có trình độ văn hoá cấp II, cấp III vẫn chưa theo kịp nhu cầu tuyển sinh hằng năm của các trường đào tạo công nhân kỹ thuật, cán bộ kỹ thuật, cán bộ khoa học, cán bộ quản lý kinh tế. Phong trào bổ túc văn hoá cho lớp người lớn tuổi, nhất là cho cán bộ và công nhân, chưa được tổ chức và lãnh đạo thật tốt. Ở miền núi và một số nơi có đông đồng bào theo đạo Thiên chúa, hàng vạn người còn mù chữ, tỷ lệ thanh niên, thiếu niên được học lên cấp II, cấp III còn thấp.

Chất lượng giáo dục hiện nay còn yếu, nhất là về kiến thức văn hoá của học sinh. Công tác giáo dục chính trị và tư tưởng chưa có nền nếp, chưa thật gắn chặt với nhiệm vụ của trường học; nội dung chương trình, sách giáo khoa và phương pháp giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu của cách mạng. Sức khoẻ, vệ sinh và việc rèn luyện thân thể của học sinh bị coi nhẹ.

Nhân tố quyết định sự phát triển số lượng và nâng cao chất lượng của giáo dục là giáo viên, song lực lượng giáo viên hiện nay còn thiếu và yếu. Chế độ công tác của giáo viên lại quá nặng. Cơ sở vật chất của nhà trường trước đây đã nghèo, nay vì chiến tranh mà càng sút kém.

Sự nghiệp giáo dục đã phát triển đến một quy mô lớn, song công tác quản lý, công tác tổ chức và chỉ đạo thực hiện của ngành giáo dục chưa được coi trọng đúng mức; công tác thanh tra giáo dục chưa tốt, chưa có tổ chức hẳn hoi.

Những mặt yếu và thiếu sót nói trên có nhiều nguyên nhân, ngành giáo dục và các cấp uỷ đảng và Uỷ ban hành chính các cấp cần tìm ra những nguyên nhân chính, ra sức làm thông suốt nhận thức và khắc phục sớm những thiếu sót về công tác quản lý, tổ chức và chỉ đạo thực hiện.

Phương hướng và nhiệm vụ công tác giáo dục trong ba năm 1968-1970.

Quan điểm cơ bản của Đảng ta về giáo dục là: nhà trường là một công cụ đắc lực của nền chuyên chính vô sản, công tác giáo dục là một bộ phận rất quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá. Thế hệ sau này như thế nào, có trở thành những người kế tục đáng tin cậy sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta hay không, có đủ sức xây dựng xã hội mới nhanh và tốt hay không, phần lớn là tuỳ thuộc ở công tác giáo dục thế hệ trẻ, ở chất lượng của nhà trường xã hội chủ nghĩa, ở phẩm chất cách mạng và năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo viên.

Dựa trên nhận thức nói trên, và xuất phát từ tình hình giáo dục những năm vừa qua, phương hướng chung của công tác giáo dục trong ba năm 1968-1970 là: "Trên cơ sở nâng cao chất lượng, ra sức phấn đấu nhằm đáp ứng những yêu cầu học tập cấp bách của nhân dân và yêu cầu đào tạo lực lượng cán bộ và lao động có kỹ thuật, đồng thời tích cực chuẩn bị điều kiện để đưa sự nghiệp giáo dục trong cả nước tiến lên mạnh mẽ và có chất lượng tốt hơn nữa trong những năm sau".

Nhiệm vụ cụ thể của công tác giáo dục trong ba năm tới là:

1. Ra sức nâng cao chất lượng giáo dục lên một bước, đồng thời tích cực phát triển giáo dục phổ thông và bổ túc văn hoá một cách vững chắc, lấy việc phát triển cấp II làm trọng tâm, tạo điều kiện để hoàn thành việc phổ cập cấp II vào những năm sau.

2. Tích cực phục vụ miền Nam, kịp thời bảo đảm những yêu cầu của miền Nam trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục.

3. Ra sức chuẩn bị về mọi mặt (nội dung chương trình, giáo viên, cơ sở vật chất và thiết bị, cán bộ quản lý, v.v.) để có thể phát triển giáo dục mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn và có chất lượng tốt hơn trong kế hoạch sau.

Nhằm vào những nhiệm vụ đó, kế hoạch ba năm của ngành giáo dục phải lấy vấn đề đào tạo và bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý làm khâu trung tâm, đồng thời từng bước vững chắc sửa đổi chương trình và biên soạn lại sách giáo khoa. Làm việc này tốt là tạo điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục và chuẩn bị cho việc cải cách giáo dục sau này.

Yêu cầu cụ thể về những nhiệm vụ trên đây như sau:

1. Mẫu giáo, vỡ lòng

Trên cơ sở tích cực đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, xây dựng cơ sở vật chất cho các trường lớp, bảo đảm phổ cập lớp vỡ lòng (hay là lớp mẫu giáo lớn), đồng thời nâng cao chất lượng các lớp vỡ lòng. Các trường lớp mẫu giáo phải có tác dụng giáo dục rõ rệt đối với các cháu và được sự chăm sóc tốt của nhân dân địa phương.

2. Trường phổ thông

Cần có những biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng giáo dục lên một bước, nhằm vào ba mặt: tư tưởng, đạo đức; kiến thức văn hoá; sức khoẻ.

Về mặt tư tưởng, đạo đức, tiếp tục giáo dục lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, đồng thời coi trọng việc xây dựng ý thức làm chủ tập thể cho học sinh (trước hết là hăng say học tập văn hoá và khoa học, bền bỉ rèn luyện để trở thành người lao động có kỹ thuật, trung thành phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân).

Để thiết thực nâng cao một bước chất lượng văn hoá và khoa học, tránh khuynh hướng làm dàn đều tất cả các môn, mà nên căn cứ vào yêu cầu và khả năng, tập trung sức vào một số môn trọng điểm nhằm đạt kết quả thật sự; chú ý cải tiến một bước việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp cho học sinh.

Tăng cường việc rèn luyện thân thể và công tác vệ sinh phòng bệnh trong trường học, bảo đảm giữ gìn và từng bước nâng cao sức khỏe của học sinh. Chú ý tổ chức cho học sinh được nghỉ ngơi thích đáng và giải trí lành mạnh, nhất là trong dịp nghỉ hè.

Đi đôi với việc nâng cao một bước chất lượng giáo dục, phải phấn đấu để phát triển sự nghiệp giáo dục một cách tích cực, vững chắc và có trọng điểm. Cần tiếp tục thực hiện việc phổ cập cấp I ở miền xuôi và vùng thấp miền núi. Tiếp tục phát triển cấp II theo hướng tiến dần đến phổ cập cấp II, bảo đảm bình quân 75% học sinh đỗ lớp 4 được lên học cấp II. Phát triển cấp III một cách tích cực và vững chắc, bảo đảm bình quân 30% học sinh đỗ lớp 7 được lên học cấp III. Chỉ tiêu phát triển giáo dục hằng năm phải dựa trên điều kiện giáo viên và cơ sở vật chất của nhà trường được chuẩn bị tốt.

3. Bổ túc văn hoá

Công tác bổ túc văn hoá có vai trò hết sức quan trọng để nâng cao trình độ văn hoá của công nhân, nông dân tập thể và những người lao động khác, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về đào tạo cán bộ và lao động có kỹ thuật. Cần đẩy mạnh công tác bổ túc văn hoá thành một phong trào cách mạng sôi nổi, tổ chức tốt các trường, lớp bổ túc văn hoá và tạo điều kiện thuận lợi cho người học được học tốt hơn. Về học sinh, cần đặc biệt chú trọng các cán bộ cốt cán lãnh đạo ở các ngành, các cấp, các đơn vị, trong đó càng chú ý hơn việc giúp đỡ cho cán bộ nữ, cán bộ dân tộc có điều kiện thuận lợi để học. Động viên và tổ chức đông đảo những người có trình độ văn hoá và khoa học tham gia dạy bổ túc văn hoá, coi đó là một nghĩa vụ. Cơ quan lãnh đạo của cơ sở sản xuất, các ngành quản lý kinh tế và sự nghiệp, với sự hợp tác chặt chẽ của Đoàn Thanh niên Lao động và Công đoàn, phải tự mình chăm lo việc tổ chức và phát triển công tác bổ túc văn hoá cho cán bộ, công nhân và xã viên của mình, theo sự hướng dẫn của ngành giáo dục.

Phấn đấu để hoàn thành phổ cập cấp I, phát triển mạnh cấp II, tiếp tục coi cấp II là trọng tâm, và cố gắng phát triển cấp III.

Đi đôi với việc tăng cường công tác bổ túc văn hoá ở nông thôn, cần chú trọng công tác bổ túc văn hoá ở các nhà máy, công trường, nông trường, lâm trường và cơ quan, thu hút hầu hết công nhân và nhân viên trẻ tuổi đi học. Ngoài việc củng cố và nâng cao chất lượng các trường do ngành giáo dục trực tiếp quản lý, các ngành cần cố gắng mở thêm trường và lớp bổ túc văn hoá tập trung.

Để mở rộng một cách vững chắc phong trào bổ túc văn hoá, cần nâng cao chất lượng dạy và học, ổn định và chuyên môn hoá đội ngũ giáo viên, tăng cường đào tạo và bồi dưỡng giáo viên bổ túc văn hoá, tăng cường lực lượng giáo viên chuyên trách, hoàn thành việc biên soạn sách giáo khoa bổ túc văn hoá, và tổ chức hợp lý việc cung cấp sách cho người dạy và người học.

4. Đối với miền núi

Sự nghiệp giáo dục ở miền núi phải được coi trọng hơn nữa. Đẩy mạnh việc phổ cập vỡ lòng, lớp 1, lớp 2 ở vùng cao, hoàn thành việc phổ cập cấp I ở vùng thấp; phát triển cấp II, cấp III một cách vững chắc.

Cần tổ chức tốt những trường phổ thông cấp I ngắn hạn cho thiếu niên quá tuổi học; từng bước xây dựng và phát triển các trường nội trú theo những hình thức thích hợp với điều kiện cụ thể của từng nơi; mở rộng một cách vững chắc màng lưới trường thiếu nhi vùng cao và đưa trường về huyện, bảo đảm thu hút ngày càng đông đảo học sinh vùng cao đi học liên tục.

Hoàn thành việc thanh toán nạn mù chữ, mở rộng các lớp bổ túc văn hoá nửa tập trung và tập trung cho cán bộ chủ chốt ở xã và hợp tác xã, cho đảng viên và đoàn viên. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, cần cải tiến điều kiện học tập và lao động của các trường thanh niên dân tộc và tích cực phát triển loại trường này. Các ngành có nông trường, lâm trường, công trường, nhà máy ở miền núi, cần mở các lớp bổ túc văn hoá tập trung, để có thể đào tạo thêm nhiều cán bộ trẻ thuộc các dân tộc.

Đi đôi với việc dựa vào nhân dân, Nhà nước cần đầu tư thích đáng cho các trường miền núi, nhất là vùng cao, về cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện sinh hoạt nội trú cho học sinh và giáo viên.

5. Về đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên

Thắng lợi của sự nghiệp giáo dục tùy thuộc phần rất lớn ở chất lượng và số lượng của đội ngũ giáo viên. Do đó, phải tích cực đào tạo và bồi dưỡng một lực lượng giáo viên đông đảo, ngày càng hoàn chỉnh về ngành nghề, vừa tốt về chính trị và tư tưởng, vừa giỏi về văn hoá và nghiệp vụ, cho cả miền xuôi và miền núi, không những đủ sức bảo đảm những yêu cầu của sự nghiệp giáo dục ngày càng phát triển mạnh mẽ ở miền Bắc, mà còn có thể phục vụ tốt sự nghiệp giáo dục to lớn của đồng bào miền Nam.

Trong ba năm 1968-1970, phải đẩy mạnh tốc độ đào tạo giáo viên các cấp, các loại, đồng thời phải tăng cường công tác bồi dưỡng lực lượng hiện có. Đối với miền núi, phải có những biện pháp tích cực và thiết thực đào tạo và bồi dưỡng nhanh chóng đội ngũ giáo viên người dân tộc, đi đôi với việc động viên một số giáo viên và thanh niên có trình độ văn hoá ở miền xuôi tình nguyện phục vụ sự nghiệp giáo dục ở miền núi.

Cần nghiên cứu và bổ sung những chế độ, chính sách cần thiết, để nâng cao vai trò, trách nhiệm của giáo viên và từng bước cải thiện đời sống cho anh chị em.

6. Chuẩn bị tốt cho sự nghiệp phát triển giáo dục những năm sau

Trong ba năm 1968-1970 tích cực chuẩn bị điều kiện để phát triển mạnh mẽ, vững chắc và nâng cao chất lượng của sự nghiệp giáo dục trong những kế hoạch sau, nhằm hoàn thành việc phổ cập cấp II, mở rộng cấp III và nâng cao một cách cơ bản chất lượng giáo dục.

Phải hoàn thành đề án cải cách giáo dục, tham khảo kinh nghiệm tiên tiến trên thế giới, định rõ mục tiêu của các cấp học phổ thông, có kế hoạch từng bước đổi mới chương trình và phương pháp giáo dục, biên soạn sách giáo khoa mới và sách hướng dẫn thầy giáo, bồi dưỡng và đào tạo giáo viên, tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường cho phù hợp với yêu cầu của cải cách giáo dục.

Bộ Giáo dục cần có kế hoạch cụ thể và thiết thực để làm đúng, làm tốt những công việc chuẩn bị cải cách giáo dục.

Những biện pháp chính:

1) Mở rộng và củng cố hệ thống các trường sư phạm và bồi dưỡng giáo viên ở trung ương và địa phương, thực hiện tốt các chính sách và chế độ đối với giáo viên

Các trường sư phạm vẫn giữ hệ ngắn hạn như hiện nay, phải được chỉ đạo thống nhất về chương trình, tài liệu và phương thức đào tạo. Song song với hệ đào tạo ngắn hạn là chính, cần bước đầu xây dựng hệ đào tạo dài hạn. Cần bổ sung những cán bộ giảng dạy có năng lực và có kinh nghiệm, tăng cường thiết bị, đồ dùng dạy học, v.v. cho các trường sư phạm, cải tiến công tác lãnh đạo và quản lý các trường đó. Cần đưa nhiều thanh niên, nhất là nữ thanh niên, có tư tưởng, đạo đức tốt, có trình độ văn hoá vào học các trường sư phạm. Chú ý chọn những thanh niên đã được rèn luyện trong chiến đấu, sản xuất, nhất là trong các đội thanh niên xung phong tập trung và thương binh còn sức khoẻ, bồi dưỡng thêm về văn hoá để tuyển vào các trường sư phạm. Các cấp chính quyền và Đoàn Thanh niên Lao động từ xã trở lên có trách nhiệm bảo đảm thực hiện tốt công tác tuyển sinh vào các trường sư phạm. Tăng thêm biên chế cho các trường sư phạm để có đủ cán bộ giảng dạy và từng bước có đủ số nhân viên làm việc ở phòng thí nghiệm và thư viện, v.v..

Cần xác định cụ thể phương hướng và nội dung kế hoạch bồi dưỡng về chính trị, văn hoá và nghiệp vụ cho giáo viên, đồng thời hướng dẫn giáo viên tự học, cung cấp cho anh chị em những tài liệu cần thiết; cải tiến chế độ công tác của giáo viên, giảm bớt những hoạt động xã hội ít liên quan trực tiếp với công tác giảng dạy, để anh chị em có điều kiện học tập.

Cần tích cực thực hiện chủ trương chuyển hết giáo viên cấp I dân lập sang chế độ nhà nước trả lương trước ngày 1-9-1969. Dựa vào các hợp tác xã để vận động nhân dân bảo đảm tốt sinh hoạt phí cho các giáo viên mẫu giáo, vỡ lòng và bổ túc văn hoá. Nghiên cứu cải tiến chế độ đãi ngộ đối với giáo viên và chế độ khen thưởng trong ngành giáo dục nhằm khuyến khích những giáo viên giỏi và công tác lâu năm. Cần chăm lo cải thiện điều kiện làm việc và điều kiện ăn, ở, đi lại của giáo viên, nhất là đối với các cô giáo.

2) Tăng cường cơ sở vật chất cho ngành giáo dục và cho các trường học

Chú trọng tăng cường cơ sở vật chất cho các trường sư phạm, trường bồi dưỡng giáo viên và các trường phổ thông, mau chóng xây dựng những phòng thí nghiệm, thư viện, và cung cấp các đồ dùng dạy học.

Cần tăng cường cơ sở vật chất của Bộ để bảo đảm yêu cầu in sách, báo, bản đồ, tranh ảnh, v.v. cần thiết cho công tác giáo dục; phát triển các xí nghiệp sản xuất các loại đồ dùng dạy học ở trung ương và giúp các tỉnh xây dựng những xưởng sản xuất những thứ đó để dùng ở trong tỉnh.

3) Đẩy mạnh công tác tư tưởng, công tác xây dựng đảng, công tác đoàn thanh niên, đội thiếu nhi và công đoàn trong ngành giáo dục

Bộ Giáo dục, các cấp uỷ đảng và Đoàn Thanh niên Lao động cần phối hợp chặt chẽ để nâng cao chất lượng và đẩy mạnh công tác chính trị và tư tưởng trong ngành giáo dục, một mặt nhằm rèn luyện đội ngũ giáo viên, cán bộ và nhân viên công tác giáo dục, giáo dục học sinh thành con người mới, mặt khác nhằm bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ công tác do Đảng và Nhà nước giao cho ngành giáo dục.

Các cấp uỷ đảng cần có kế hoạch tích cực giáo dục và chọn lọc trong đội ngũ giáo viên và cán bộ, nhân viên làm công tác giáo dục những người có đủ tiêu chuẩn để kết nạp vào Đảng, xây dựng và kiện toàn các chi bộ nhà trường, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong ngành giáo dục. Cần coi trọng việc bồi dưỡng các cán bộ, đảng viên làm công tác giáo dục ở các trường học, về chính trị và tư tưởng, về công tác quản lý giáo dục, về nội dung và phương thức công tác đảng, công tác quần chúng trong trường học.

Phát triển và củng cố Đoàn Thanh niên Lao động, Đội Thiếu niên Tiền phong và Đội Nhi đồng Tháng Tám trong nhà trường, đẩy mạnh việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ phụ trách công tác đoàn, đội trong nhà trường lấy từ giáo viên ra, và nâng cao chất lượng công tác của các tổ chức đoàn, đội trong nhà trường nhằm phục vụ tốt sự nghiệp giáo dục toàn diện đối với thanh, thiếu nhi.

Công tác công đoàn trong ngành giáo dục cũng cần được tăng cường, động viên tất cả giáo viên và những nhân viên khác trong ngành thật sự tham gia quản lý các trường học, đồng thời từng bước cải thiện điều kiện lao động và sinh hoạt của anh chị em.

4) Cải tiến và tăng cường bộ máy quản lý công tác giáo dục

Trong ba năm 1968-1970 cần hoàn thành việc cải tiến bộ máy quản lý giáo dục từ Bộ đến các trường học. Đảng đoàn Bộ Giáo dục chuẩn bị kế hoạch toàn diện về vấn đề này, thảo luận tập thể trong Bộ và trình Thường vụ Chính phủ duyệt. Đặc biệt coi trọng tổ chức hệ thống công tác thanh tra giáo dục và quy định việc phân cấp quản lý giữa Bộ và địa phương. Tăng cường việc bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà trường, mạnh dạn cất nhắc những cán bộ nữ, cán bộ trẻ có phẩm chất tốt và nắm vững công tác chuyên môn.

5) Trách nhiệm của các ngành, các cấp

Công tác giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng đối với tương lai của đất nước ta. Trách nhiệm của ngành giáo dục, trách nhiệm của toàn Đảng, của các ngành, các cấp là ra sức thực hiện đầy đủ Chỉ thị này.

Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Lao động, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Uỷ ban Hành chính các cấp, Đoàn Thanh niên Lao động, các ngành và các đoàn thể khác có liên quan, căn cứ vào chức năng của mình mà giúp đỡ ngành giáo dục, cùng bàn bạc và phối hợp công tác.

Ban Khoa học giáo dục ở các cấp có nhiệm vụ giúp cấp uỷ đảng hướng dẫn, kiểm tra và đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị này.

T/M BAN BÍ THƯ

LÊ VĂN LƯƠNG

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực