Chỉ thị của Ban Bí thư khoá IV về việc khẩn trương đẩy mạnh việc xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý

Thứ sáu, 02/12/2011 16:47

Ngày 2/6/1978, Ban Bí thư khoá IV đã ban hành Chỉ thị số 45 CT/TW về việc khẩn trương đẩy mạnh việc xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý. Sau đây là toàn văn Chỉ thị:

I- ƯU ĐIỂM, KHUYẾT ĐIỂM CỦA CÔNG TÁC CÁN BỘ VÀ SỰ CẤP THIẾT PHẢI XÂY DỰNG QUY HOẠCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, CÁN BỘ QUẢN LÝ

Trong quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, Đảng ta đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý đông đảo, có phẩm chất cách mạng tốt đẹp, vững vàng về chính trị, gắn bó với nhân dân, trình độ kiến thức và năng lực ngày càng được nâng cao. Đây là một trong những thành quả to lớn nhất của cách mạng, đồng thời là bảo đảm quan trọng cho thắng lợi của mọi nhiệm vụ cách mạng.

Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý hiện còn nhiều nhược điểm: tuổi bình quân cao, nhiều đồng chí già yếu, ốm đau; trình độ kiến thức các mặt chưa được nâng cao tương xứng với nhiệm vụ; thành phần công nhân chiếm tỷ lệ thấp; cơ cấu chưa hợp lý, thiếu đồng bộ; số lượng có những nơi còn thiếu.

Từ sau khi có Nghị quyết 225 của Bộ Chính trị1) và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá III)2) công tác cán bộ đã có những tiến bộ quan trọng: việc điều động cán bộ, việc kiện toàn các cấp uỷ đảng và các cơ quan quản lý đã cố gắng bám sát và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ tổ chức; lựa chọn và đề bạt cán bộ đã chú ý xem xét toàn diện cả phẩm chất và năng lực, đã đề bạt được một số cán bộ trẻ có kiến thức khoa học, kỹ thuật vào các chức vụ quản lý và lãnh đạo; đã đẩy mạnh một bước công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Song phải thấy rõ công tác cán bộ chuyển biến còn chậm; những khuyết điểm chính ở nhiều nơi là:

- Các cấp uỷ đảng, các cán bộ phụ trách chưa chỉ đạo sát sao công tác cán bộ, chưa gắn chặt lãnh đạo chính trị với lãnh đạo tư tưởng và tổ chức.

- Chưa thông suốt đầy đủ những quan điểm về công tác cán bộ của Đảng; còn nhiều biểu hiện hẹp hòi, bảo thủ hoặc bè phái, cục bộ, địa phương, cá nhân chủ nghĩa.

- Quản lý cán bộ chưa chặt chẽ, có những trường hợp nắm cán bộ không chắc; chưa kết hợp việc quản lý của cấp trên với việc dựa vào cán bộ, đảng viên bên dưới để kiểm tra, giáo dục và lựa chọn cán bộ.

- Chưa tích cực đổi mới từng phần cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý; thiếu mạnh dạn phát hiện và đề bạt cán bộ trẻ, mặt khác, chậm giải quyết số cán bộ già yếu, ốm đau, năng lực hạn chế.

- Chưa mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng cán bộ kịp với yêu cầu; việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chủ chốt và cán bộ quản lý làm kém.

- Công tác cán bộ còn sự vụ, chắp vá, thiếu tính kế hoạch và tính khoa học. Việc làm quy hoạch cán bộ triển khai chậm, chưa đều.

Bước vào giai đoạn cách mạng mới, để xây dựng đội ngũ cán bộ lớn mạnh ngang tầm nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ tổ chức, phải ra sức tăng cường công tác cán bộ về mọi mặt, mau chóng sửa chữa những khuyết điểm trên đây, tiếp tục thực hiện đầy đủ Nghị quyết 225 của Bộ Chính trị, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV về công tác cán bộ.

Vấn đề then chốt là phải khẩn trương xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ. Tại Đại hội lần thứ IV của Đảng, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ rõ: "xây dựng và chỉ đạo thực hiện tốt quy hoạch cán bộ là một biện pháp đặc biệt trọng yếu có tính chất quyết định để tăng cường công tác cán bộ về mọi mặt". Làm tốt việc này chính là thiết thực "nâng cao tính khoa học và tính kế hoạch trong công tác cán bộ" như đã nêu trong Nghị quyết của Đại hội IV. Quy hoạch cán bộ nói chung, nhất là quy hoạch cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý càng quan trọng. Cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý là rường cột của chuyên chính vô sản, là lực lượng nòng cốt trong bộ máy của Đảng, của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Việc kiện toàn đội ngũ cán bộ này có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực của toàn hệ thống chuyên chính vô sản.

II- PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, CÁN BỘ QUẢN LÝ ĐẾN NĂM 1980 VÀ 1985

1. Cần quán triệt những phương hướng chung là:

- Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý kết hợp chặt chẽ với việc cải tiến công tác lãnh đạo của Đảng, cải tiến công tác quản lý, nhất là quản lý kinh tế của Nhà nước. Đội ngũ cán bộ ấy phải đủ về số lượng, cơ cấu và chất lượng phải phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ tổ chức của toàn Đảng và của từng ngành, từng địa phương.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý có đầy đủ phẩm chất và năng lực: tuyệt đối trung thành, vững vàng về chính trị, có kiến thức khoa học và kỹ thuật cần thiết, nắm chắc và biết cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng, có năng lực tổ chức thực hiện giỏi. Vừa lựa chọn, bố trí từng người đúng chỗ, đúng việc, vừa xây dựng thành một tập thể mạnh, có phong cách đồng đội, đoàn kết thống nhất.

- Kết hợp tốt cán bộ cũ với cán bộ mới, cán bộ lớn tuổi với cán bộ trẻ tuổi, thực hiện đổi mới từng phần cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, bảo đảm tốt hơn nữa các lớp kế thừa trong đội ngũ cán bộ. Phải từng bước tăng cường số lượng cán bộ thuộc thành phần công nhân. Kết hợp cán bộ chính trị với cán bộ chuyên môn, kỹ thuật; mạnh dạn đề bạt những cán bộ chuyên môn, kỹ thuật có đủ tiêu chuẩn vào các chức vụ lãnh đạo và quản lý.

- Vừa chú trọng làm tốt những việc cấp bách về kiện toàn cán bộ, bồi dưỡng cán bộ để kịp đáp ứng nhiệm vụ trước mắt, vừa có nhìn xa, chủ động chuẩn bị tiến tới kiện toàn đội ngũ cán bộ một cách căn bản để đáp ứng nhiệm vụ lâu dài.

2. Cố gắng phấn đấu đến năm 1980 và 1985 đạt tới một số mục tiêu cụ thể như sau:

a) Về số lượng và cơ cấu: trên cơ sở xác định rõ bộ máy tổ chức, số lượng và cơ cấu cán bộ cần thiết, phấn đấu trong khoảng 1-2 năm, bố trí đủ số lượng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý cho những bộ máy hiện có, chấm dứt tình trạng có những cương vị để trống, hoặc kiêm nhiệm, để "quyền" quá lâu; ngược lại, nơi quá nhiều phó thì rút bớt và sắp xếp lại cho hợp lý; những tổ chức mới thành lập đều phải được bố trí đủ cán bộ. Bảo đảm cơ cấu đồng bộ: trong số cán bộ phụ trách của bộ, tổng cục, của vụ, cục, công ty có đồng chí vững về chính trị, có đồng chí thạo về quản lý, có đồng chí giỏi về kỹ thuật, chuyên môn... Ở xí nghiệp, bệnh viện, trường học... bố trí đồng bộ cán bộ đảng và cán bộ quản lý, cán bộ đoàn thể quần chúng.

b) Về nâng cao trình độ kiến thức các mặt: đến 1985, trong cán bộ quản lý từ trưởng, phó ty, vụ, cục, viện trưởng và phó, giám đốc và phó giám đốc xí nghiệp, nông trường trở lên đến thứ trưởng, bộ trưởng phải có khoảng 80% được học qua chương trình lý luận chính trị cao cấp hoặc trung cấp, cũng khoảng 80% có trình độ đại học về quản lý, khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ. Phấn đấu đến 1980 có khoảng 60% được học lý luận chính trị cao cấp hoặc trung cấp, khoảng 40% có trình độ đại học về quản lý, về kỹ thuật. Trong các cơ quan quản lý kinh tế, khoa học, giáo dục, y tế thì số cán bộ quản lý có trình độ đại học về ngành nghề đó phải chiếm tỷ lệ cao hơn tỷ lệ quy định chung trên đây.

Đến 1985, chủ nhiệm các hợp tác xã nông nghiệp phải có trình độ trung học về quản lý, kỹ thuật, một bộ phận có trình độ đại học hoặc cao đẳng.

Đến 1985, có khoảng 90% tỉnh uỷ viên đã học qua chương trình lý luận chính trị cao cấp; khoảng 70% có trình độ đại học kinh tế và kỹ thuật; khoảng 90% huyện uỷ viên học qua chương trình lý luận chính trị cao cấp và trung cấp, khoảng 70% có trình độ đại học và trung học về kinh tế và kỹ thuật. Trước mắt từ nay đến 1980, ở miền Bắc có khoảng 60-70% tỉnh uỷ viên học qua chương trình lý luận chính trị cao cấp và khoảng 40 - 45% có trình độ đại học về quản lý, kỹ thuật chuyên môn; ở các huyện đồng bằng và trung du miền Bắc khoảng 70% huyện uỷ viên học qua chương trình lý luận chính trị cao cấp và trung cấp, khoảng 40 - 50% có trình độ đại học và trung học về quản lý, chuyên môn. Đối với các tỉnh, các huyện miền Nam và miền núi thì mức độ yêu cầu thấp hơn.

c) Về kết hợp cán bộ cũ và cán bộ mới, đổi mới từng phần cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý. Trong hàng bộ trưởng, thứ trưởng, bên cạnh số cán bộ lớn tuổi còn sức khoẻ, có năng lực, phấn đấu tăng thêm số cán bộ ở độ tuổi dưới 50, đến năm 1980 được khoảng 30-40% và đến 1985 được khoảng 60-70%. Trong hàng cục, vụ, viện trưởng và phó, giám đốc và phó giám đốc xí nghiệp thì số dưới 45 tuổi đến 1980 chiếm khoảng 30 - 40% và đến 1985 chiếm khoảng 60-70%. Ở các ngành kinh tế, kỹ thuật thì tỷ lệ cán bộ quản lý trẻ phải cao hơn.

Trong các tỉnh uỷ, huyện uỷ, bên cạnh lớp cán bộ lớn tuổi, cần tăng thêm số cán bộ trẻ để đến 1985 số đông tỉnh uỷ viên ở độ tuổi 40-45, số đông huyện uỷ viên ở độ tuổi 35-40.

Ở các cơ quan quản lý, trong các đồng chí phó ít nhất phải có một người có thể sẵn sàng thay đồng chí trưởng, khi cần thiết. Trong ban thường vụ đảng ủy các cấp, ít nhất có một đồng chí có thể sẵn sàng thay đồng chí bí thư.

d) Về tỷ lệ cán bộ xuất thân công nhân: đến 1985 có khoảng 25-30% tỉnh uỷ viên và 10-15% huyện uỷ viên xuất thân công nhân. Trong cán bộ quản lý xí nghiệp, cán bộ vụ, cục, công ty khối công nghiệp thì tỷ lệ này là khoảng 40-50%.

Trên đây chỉ xác định một số mục tiêu cho những đối tượng cán bộ chính. Từng tỉnh và ngành trung ương căn cứ vào đặc điểm tình hình đội ngũ cán bộ và yêu cầu nhiệm vụ chính trị, tổ chức của địa phương, của ngành mà xác định nhu cầu về số lượng các loại cán bộ lãnh đạo, quản lý và cụ thể hoá phương hướng, mục tiêu phấn đấu nâng cao chất lượng từng đội ngũ cán bộ đến 1980 và 1985. Ở các tỉnh miền núi cần xác định thêm mục tiêu về xây dựng đội ngũ cán bộ thành phần dân tộc thiểu số. Ở các ngành, đơn vị có đông lao động nữ, cần xác định mục tiêu về xây dựng đội ngũ cán bộ nữ.

III- MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP CHÍNH

1. Xác định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và xây dựng tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý

a) Để có căn cứ làm quy hoạch cán bộ, sau khi nhiệm vụ chính trị đã được quy định, cần xác định nhiệm vụ tổ chức, sắp xếp hợp lý bộ máy và biên chế, nhất là làm rõ nhiệm vụ và số lượng, cơ cấu cần thiết của từng cơ quan lãnh đạo, quản lý, xây dựng chức trách từng cán bộ.

b) Trên cơ sở đó, xây dựng tiêu chuẩn cụ thể từng loại cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý. Riêng về tiêu chuẩn trình độ kiến thức các mặt, cần quy định phù hợp với thực tế đội ngũ cán bộ của ta hiện nay ở từng miền khác nhau, nhằm động viên cán bộ phấn khởi vươn lên, ra sức tu dưỡng và học tập để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, tăng cường đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau giữa cán bộ cũ và cán bộ mới, cán bộ chính trị và cán bộ chuyên môn.

Tiêu chuẩn của một cấp uỷ, của đội ngũ cán bộ quản lý một ngành phải căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ nói chung của Đảng mà cụ thể hoá nội dung từng điểm phù hợp với vị trí, chức trách của ngành đó, cấp đó.

Dựa trên tiêu chuẩn ấy, khi xây dựng tiêu chuẩn cụ thể của từng chức vụ chỉ cần cụ thể hoá thêm tiêu chuẩn về năng lực và trình độ kiến thức. Tiêu chuẩn này nên quy định cụ thể trên ba mặt: năng lực về lãnh đạo, về tổ chức quản lý tương ứng với nhiệm vụ được giao; trình độ kiến thức cần thiết về lý luận chính trị, về văn hoá, về chuyên môn nghiệp vụ; đã trải qua những thực tiễn công tác nào (tuỳ theo yêu cầu của từng chức vụ khác nhau) và đã hoàn thành tốt những nhiệm vụ công tác ấy.

Không xem nhẹ kiến thức học tập ở trường lớp, mặt khác, không chỉ căn cứ vào bằng cấp mà xem nhẹ những hiểu biết và khả năng của cán bộ tích luỹ trong công tác thực tiễn. Đối với cán bộ đương chức còn trẻ tuổi và đối với cán bộ dự bị thì yêu cầu học tập có hệ thống và sau một số năm phải đạt tới trình độ quy định. Đối với cán bộ đã lớn tuổi thì yêu cầu học tập theo một chương trình thích hợp. Đối với cán bộ qua công tác thực tiễn lâu năm, đã tự học và tích luỹ kiến thức tương đương với trình độ quy định, cấp trên cần xem xét, xác nhận và không đòi hỏi phải học có văn bằng.

Sau khi đã xây dựng tiêu chuẩn cụ thể, việc lựa chọn đề bạt cán bộ phải căn cứ vào những tiêu chuẩn ấy. Trong một số trường hợp đặc biệt nếu đề bạt cán bộ chưa có đủ tiêu chuẩn quy định thì phải chú ý tới chỗ người được đề bạt đó có triển vọng phấn đấu đạt tới những tiêu chuẩn ấy.

2. Lựa chọn và xây dựng lực lượng cán bộ dự bị

Đây là khâu then chốt của quy hoạch cán bộ, vừa có ý nghĩa quyết định đối với việc sắp xếp, kiện toàn cán bộ một cách chủ động, vừa bảo đảm chất lượng chiêu sinh các trường lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Lựa chọn cán bộ dự bị cho chức vụ nào thì căn cứ vào những tiêu chuẩn cụ thể quy định cho chức vụ ấy, và phải quán triệt những phương hướng của quy hoạch nhằm từng bước cải tiến cơ cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ. Cán bộ dự bị cho chức vụ nào, cấp nào phải trẻ hơn tuổi bình quân của cán bộ đương chức ở chức vụ ấy, cấp ấy.

Phải đi sát cấp dưới và cơ sở, từ trong thực tiễn sản xuất và công tác, từ những đơn vị tiên tiến đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà tìm tòi, phát hiện những cán bộ ưu tú và phải khắc phục thái độ bảo thủ hẹp hòi trong việc lựa chọn cán bộ dự bị. Mỗi chức vụ lãnh đạo và quản lý đều cần có cán bộ dự bị, song trước hết tập trung lựa chọn cán bộ cho những chức vụ cần thay thế hoặc kiện toàn từ nay đến 1980 theo dự kiến của quy hoạch. Tuỳ nguồn cán bộ từng nơi, mỗi chức vụ ấy nên có từ hai đến ba cán bộ dự bị, trong đó có người sẵn sàng thay thế ngay và có người để đào tạo chuẩn bị dài hạn hơn.

Lựa chọn được cán bộ dự bị rồi, phải căn cứ vào chỗ mạnh, chỗ yếu của mỗi người và ý định sử dụng lâu dài sau này mà có kế hoạch đưa đi đào tạo bồi dưỡng về những mặt kiến thức còn thiếu, hoặc sắp xếp lại công tác cho thích hợp, mạnh dạn giao việc nặng hơn hoặc đưa xuống cơ sở nếu chưa qua trưởng thành từ dưới lên, v.v.. Mỗi lần xét duyệt đề bạt cán bộ, chiêu sinh các trường, lớp đào tạo, cấp trên, cần qua đó kiểm tra việc lựa chọn và quản lý cán bộ dự bị của cấp dưới.

Mỗi năm, sau kỳ tổng kết công tác và sau đợt nhận xét cán bộ, cần đánh giá lại số cán bộ dự bị, thay đổi những người không đủ tiêu chuẩn, bổ sung những người mới.

3. Thực hiện đúng chính sách đối với cán bộ về hưu, cán bộ đau yếu, cán bộ năng lực không đủ đáp ứng nhiệm vụ

Cần ra sức bồi dưỡng kiến thức và khéo bố trí cán bộ cũ, tạo điều kiện cho các đồng chí đó phấn đấu vươn lên phát huy tác dụng trong giai đoạn cách mạng mới. Đồng thời cần thực hiện đúng chính sách đối với cán bộ về hưu, cán bộ đau yếu, cán bộ năng lực không đủ đáp ứng nhiệm vụ.

Số cán bộ đã đến tuổi quy định nói chung đều về hưu và cấp trên cử người thay thế ngay. Đó là vì yêu cầu kiện toàn bộ máy của Đảng và Nhà nước, và cũng phù hợp với lợi ích bản thân các đồng chí ấy. Chỉ trường hợp rất hạn chế đối với cán bộ có năng lực, còn sức khoẻ, chưa có người thay thế, và do cấp trên yêu cầu, thì mới lưu lại làm việc thêm một thời gian. Quan tâm săn sóc đời sống tinh thần của cán bộ hưu; tuỳ điều kiện sức khoẻ và khả năng mỗi người, có thể giao những công việc thích hợp, tận dụng hiểu biết và kinh nghiệm của các đồng chí ấy để tiếp tục phục vụ cách mạng. Đồng thời, cần săn sóc chu đáo đời sống vật chất của cán bộ đã về hưu, thực hiện đầy đủ những chế độ mà Đảng và Nhà nước đã ban hành và nghiên cứu bổ sung thêm những chế độ cần thiết.

Số cán bộ đau yếu nhiều cần được đi điều trị dài hạn, rút khỏi cương vị phụ trách hiện tại và cử người khác thay thế.

Số cán bộ đã xét rõ là không đủ năng lực, đang trở ngại tới việc hoàn thành nhiệm vụ, cần kiên quyết sắp xếp lại công tác cho phù hợp với khả năng. Mức lương và các chế độ đãi ngộ đối với các đồng chí này vẫn giữ như cũ.

Trên cơ sở đánh giá, phân loại số cán bộ hiện có và căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ tổ chức mà có phương án cụ thể đến năm 1980 và trước mắt cho năm 1978 về sắp xếp, kiện toàn, điều chỉnh cán bộ. Nội dung của phương án này bao gồm một mặt là: lập danh sách số cán bộ cần về hưu, giải quyết khẩn trương số cán bộ cần về hưu từ mấy năm nay còn đọng lại, và từ nay trở đi đưa việc cho cán bộ về hưu vào nền nếp bình thường; lập danh sách số cán bộ đau yếu nhiều cần nghỉ công tác và tổ chức việc điều trị, điều dưỡng cho các đồng chí đó; xem xét và lập danh sách cán bộ năng lực không đủ đáp ứng nhiệm vụ, và dự kiến sắp xếp lại công tác cho từng người. Mặt nữa, phương án bao gồm dự kiến đề bạt cán bộ để kiện toàn những đơn vị trọng yếu, những tổ chức mới lập, những đơn vị còn thiếu, nhất là những ngành và đơn vị quan trọng đối với việc thực hiện kế hoạch nhà nước 1976-1980. Đồng thời kiên quyết điều chỉnh, phân bố lực lượng cán bộ một cách hợp lý, nhằm trước hết tăng cường cho cơ sở, cho cấp huyện, cho miền Nam, miền núi...

4. Thực hiện phương pháp dân chủ trong việc lựa chọn, đề bạt, kiện toàn cán bộ

Tổ chức cho chi bộ, cán bộ, đảng viên bên dưới tham gia vào việc lựa chọn, đề bạt, thay đổi cán bộ là một phương pháp rất trọng yếu bảo đảm cho những quyết định của cơ quan lãnh đạo về công tác cán bộ được chính xác, khách quan, toàn diện, ngăn chặn tình trạng chủ quan, độc đoán, cảm tình hoặc thành kiến cá nhân.

Cần tổ chức cho chi bộ, cán bộ trong cơ quan (kể cả cán bộ ngoài Đảng) nghiên cứu nắm vững những quan điểm công tác cán bộ của Đảng, trên cơ sở đó thảo luận xây dựng nhiệm vụ, chức trách, cơ cấu lãnh đạo của từng đơn vị và tiêu chuẩn cán bộ. Tiếp đó, anh chị em tham gia ý kiến cần thay đổi ai vì năng lực hoặc phẩm chất không đủ, và nên đề bạt ai có khả năng đáp ứng nhiệm vụ tốt hơn. Có thể dùng hình thức bỏ phiếu kín, cũng có thể từng người viết thư hoặc trực tiếp gặp cơ quan lãnh đạo cấp trên để phát biểu ý kiến. Trước khi đề bạt cán bộ, thủ trưởng và cơ quan lãnh đạo cần đưa ra đảng uỷ hoặc chi uỷ cơ quan thảo luận góp ý kiến, như đã quy định trong Thông báo số 11, ngày 18-4-1975 của Ban Bí thư. Trên cơ sở những ý kiến đó, cơ quan tổ chức tập hợp và thẩm tra thêm, rồi đưa ra tập thể cơ quan lãnh đạo cân nhắc và quyết định.

Mỗi cán bộ phụ trách ngành, cơ quan, đơn vị có trách nhiệm phát hiện và đề nghị với cấp trên về cán bộ dự bị có thể sẵn sàng kế tục cương vị công tác của mình. Đồng thời tổ chức lấy ý kiến của chi bộ, cán bộ, đảng viên bên dưới. Sau đó cơ quan lãnh đạo xem xét, quyết định và không cần phải thông báo trở lại cho cán bộ, đảng viên bên dưới về danh sách số cán bộ dự bị này.

5. Lập kế hoạch và tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

a) Cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, nảy nở và trưởng thành từ phong trào cách mạng, từ công tác thực tiễn. Vì vậy phải coi trọng cải tiến công tác của các cơ quan, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, xây dựng và thực hiện chặt chẽ các chế độ công tác, chế độ tự phê bình và phê bình, chế độ nhận xét cán bộ, phát triển các hình thức bồi dưỡng ngắn ngày, sơ kết và tổng kết kinh nghiệm, tham quan nghiên cứu, học tập các điển hình tiên tiến, phân công cán bộ lãnh đạo cấp trên giúp đỡ kèm cặp trong công tác thực tế, v.v..

b) Kiện toàn và sắp xếp hợp lý hệ thống trường, lớp, cải tiến chương trình và nâng cao hơn nữa chất lượng giảng dạy.

Về hệ thống trường đảng: kiện toàn và mở rộng quy mô các trường đảng cao cấp và trung cấp của trung ương; vừa có hệ bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý đương chức, vừa có hệ đào tạo cán bộ lãnh đạo chung, cán bộ phụ trách công tác đảng, công tác chính trị, tuổi tương đối trẻ. Vừa tăng cường trường lớp tập trung, vừa phát triển mạnh các lớp tại chức. Có chương trình học hoàn chỉnh cho cán bộ trẻ và có chương trình thích hợp cho cán bộ đứng tuổi.

Các trường đảng tỉnh vươn lên mở chương trình lý luận chính trị trung cấp; một số tỉnh lớn mở lớp lý luận cao cấp tại chức. Các trường đảng huyện vươn lên mở chương trình sơ cấp.

Sớm hình thành và phân rõ trách nhiệm các trường lớp bồi dưỡng và đào tạo cán bộ quản lý, nhất là cán bộ quản lý kinh tế. Các tỉnh, thành xây dựng hệ bồi dưỡng và đào tạo cán bộ quản lý trong các trường trung học và cao đẳng nông nghiệp, trường trung học kinh tế, trạm đại học tại chức... của địa phương. Từng bộ, tổng cục xây dựng chương trình và mở lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý đương chức của ngành hoặc dựa vào các trường đại học và trung học hiện có của ngành, mở các lớp đại học chuyên tu và cao đẳng đào tạo cán bộ quản lý. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế chủ trì bàn với các ngành có liên quan về việc tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh tế, có sự phân công hợp lý giữa các trường, giữa bộ với địa phương.

Cần kiện toàn các trường bổ túc văn hoá tập trung và tại chức, nhất là ở miền Nam, để mau chóng nâng cao trình độ văn hoá của cán bộ.

c) Căn cứ vào những mục tiêu của quy hoạch, từng cán bộ đăng ký phấn đấu học tập nâng cao trình độ từ nay đến 1980, chi bộ tham gia ý kiến và cơ quan lãnh đạo phê chuẩn. Chấn chỉnh công tác chiêu sinh, bảo đảm trước hết bồi dưỡng số cán bộ lãnh đạo và quản lý đương chức và đào tạo số cán bộ dự bị cho các chức vụ lãnh đạo và quản lý chủ chốt ở các cấp, các ngành. Trước mắt, ngay trong khoá học 1978 và 1979, cần đưa đến các trường đảng cao cấp và trung cấp số cán bộ dự bị để cử vào các chức vụ chủ chốt của các tỉnh uỷ, huyện uỷ trong các đại hội đảng bộ sẽ mở năm 1979 và 1981 và cán bộ dự bị cho các chức vụ chủ chốt của các bộ và các ngành trung ương.

Cần quản lý số cán bộ đã qua đào tạo, theo dõi việc bố trí, sử dụng họ và kết quả công tác của họ sau khi đi học về.

6. Tăng cường công tác quản lý cán bộ

Tìm hiểu cán bộ một cách có hệ thống, nắm chắc cán bộ một cách cụ thể và toàn diện, về phẩm chất và năng lực, mặt mạnh và mặt yếu, biểu hiện chính trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị từ trước đến nay... đó là điều kiện quan trọng bậc nhất để làm tốt việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ, từ lựa chọn cán bộ dự bị đến sắp xếp, kiện toàn cán bộ và đào tạo bồi dưỡng cán bộ.

Các cấp uỷ đảng, trước hết là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt ở các cấp, các ngành, phải nắm chắc cán bộ và công tác cán bộ, trước mắt là đi sâu chỉ đạo việc làm quy hoạch cán bộ. Ở các bộ cần có một đồng chí thứ trưởng chuyên trách về công tác tổ chức, công tác cán bộ, đồng thời đồng chí bộ trưởng và trưởng ban cán sự phải dành một phần thì giờ thích đáng cho công tác cán bộ.

Kiện toàn các ban tổ chức, các vụ cán bộ gồm những cán bộ trung thực, dân chủ, nắm vững đường lối, quan điểm công tác cán bộ của Đảng và có hiểu biết nhất định về quản lý kinh tế, quản lý nhà nước. Trong cơ quan này, cần phân công vài cán bộ có năng lực do đồng chí trưởng ban, đồng chí vụ trưởng trực tiếp phụ trách để chuyên giúp cấp uỷ, ban cán sự, đảng đoàn về việc làm quy hoạch cán bộ.

Các đoàn thể quần chúng có trách nhiệm giúp Đảng quản lý cán bộ, góp phần kiểm tra, giáo dục cán bộ, phát hiện và cung cấp cho Đảng những cán bộ ưu tú nảy nở trong phong trào quần chúng.

IV- VỀ KẾ HOẠCH TIẾN HÀNH VÀ PHÂN CÔNG TRÁCH NHIỆM

1. Về làm quy hoạch cán bộ

- Ban Tổ chức Trung ương giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư làm quy hoạch số cán bộ lãnh đạo chủ chốt (bí thư, phó bí thư, chủ tịch) các tỉnh, thành và cùng các ban giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư quy hoạch số cán bộ từ tổng cục phó, thứ trưởng trở lên.

Thường vụ tỉnh uỷ lập quy hoạch chung về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong địa phương và trực tiếp quy hoạch cụ thể một số chức danh: tỉnh uỷ viên, trưởng, phó ty, thường vụ huyện uỷ..., còn các chức danh dưới thì phân công cho các ban cán sự ty, các thường vụ huyện uỷ quy hoạch cụ thể. Ban Tổ chức Trung ương tổng hợp quy hoạch đối với tỉnh uỷ viên.

Bộ, tổng cục lập quy hoạch đội ngũ cán bộ quản lý toàn ngành và trực tiếp quy hoạch một số đối tượng như trưởng phòng, cục, vụ trưởng và phó, giám đốc và phó giám đốc xí nghiệp. Đồng thời phân cấp cục, vụ, công ty, xí nghiệp chịu trách nhiệm quy hoạch cụ thể số cán bộ ở các chức vụ dưới. Ban Tổ chức Trung ương và các ban của Trung ương tổng hợp quy hoạch đối với cán bộ quản lý cấp vụ, cục, công ty... thuộc diện Trung ương quản lý.

Đối với đội ngũ bí thư đảng uỷ xí nghiệp, nông trường, bệnh viện, trường học... trực thuộc bộ, do bộ làm quy hoạch, nhưng cần bàn bạc nhất trí với tỉnh uỷ, thành ủy quản lý các đảng bộ ấy.

Đối với đội ngũ trưởng, phó ty, trưởng phó phòng ở tỉnh, thành, huyện, quận thì bộ có nhiệm vụ xây dựng tiêu chuẩn và kiện toàn hệ thống trường lớp, có kế hoạch chiêu sinh đào tạo, bồi dưỡng về mặt quản lý chuyên môn, và cùng với tỉnh uỷ, thành uỷ xem xét đánh giá các trưởng, phó ty, lựa chọn cán bộ dự bị và các kế hoạch sắp xếp, kiện toàn. Từng bộ tổng hợp quy hoạch cán bộ trưởng, phó ty của ngành mình, đồng thời từng tỉnh, thành uỷ tổng hợp quy hoạch các trưởng, phó ty trong địa phương mình.

Nên xây dựng quy hoạch đến năm 1985, nhưng phần tính toán cụ thể về đề bạt, điều động, chỉ tiêu đào tạo... thì làm đến năm 1980.

2. Về quản lý cán bộ dự bị

Theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ, cấp nào chịu trách nhiệm quản lý những chức danh nào thì phải xem xét, kiểm tra, tổng hợp danh sách cán bộ dự bị cho những chức danh ấy, do cấp dưới đề nghị lên, và theo dõi việc bồi dưỡng, sử dụng số cán bộ dự bị này. Cụ thể là:

Ban Tổ chức Trung ương cùng các ban giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư lựa chọn cán bộ dự bị cho các chức danh bộ trưởng, thứ trưởng, bí thư và chủ tịch tỉnh, thành. Ban thường vụ tỉnh uỷ lựa chọn, lập danh sách số cán bộ dự bị cho tỉnh uỷ viên và báo cáo lên Ban Bí thư (qua Ban Tổ chức Trung ương); số cán bộ dự bị cho bí thư và chủ tịch huyện thì báo cáo cho Ban Tổ chức Trung ương tổng hợp và theo dõi chung. Ban cán sự các bộ lựa chọn, lập danh sách cán bộ dự bị cho các chức danh vụ, cục, viện trưởng và báo cáo lên Ban Bí thư (qua Ban Tổ chức Trung ương và các ban có quan hệ); đối với danh sách cán bộ dự bị cho các chức danh vụ, cục, viện phó thì báo cáo cho ban có quan hệ theo dõi và tổng hợp chung. Hằng năm phải báo cáo tình hình cán bộ dự bị và đề nghị bổ sung, điều chỉnh danh sách này; đồng thời hằng năm phải báo cáo lên cấp trên tình hình số cán bộ thuộc diện quản lý của cấp trên: về ưu điểm, khuyết điểm, về đời sống, và sức khoẻ.

3. Về trách nhiệm xây dựng và quyền hạn ban hành tiêu chuẩn cán bộ

- Ban Tổ chức Trung ương cùng các ban có liên quan nghiên cứu đề nghị Ban Bí thư quy định tiêu chuẩn các tỉnh uỷ, thành uỷ, huyện uỷ, đảng uỷ cơ sở, tiêu chuẩn các cán bộ phụ trách các bộ, tổng cục, ban ở trung ương.

- Từng bộ, ban, tổng cục xây dựng tiêu chuẩn cán bộ quản lý ngành mình kể cả ở cơ quan trung ương và địa phương. Riêng tiêu chuẩn cán bộ cấp cục, vụ, viện thì trình Ban Bí thư phê chuẩn (trong khi Ban Bí thư chưa phê chuẩn, bộ có thể ban hành quy định tạm thời).

- Các bộ chức năng: Kế hoạch, Tài chính, Lao động... xây dựng tiêu chuẩn những loại cán bộ này công tác ở các ngành khác. Bộ Đại học xây dựng tiêu chuẩn cán bộ quản lý các trường đại học và trung học của các bộ và địa phương. Bộ Y tế xây dựng tiêu chuẩn cán bộ quản lý các bệnh viện, bệnh xá của các bộ và địa phương. Tiêu chuẩn giám đốc, phó giám đốc xí nghiệp do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế cùng Ban Công nghiệp Trung ương nghiên cứu đề nghị Hội đồng Chính phủ ban hành. Tiêu chuẩn cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp do Bộ Nông nghiệp xây dựng.

4. Quân uỷ Trung ương căn cứ vào tinh thần Chỉ thị này chỉ đạo việc xây dựng tiêu chuẩn và quy hoạch cán bộ quân đội và báo cáo với Ban Bí thư về tiêu chuẩn và quy hoạch diện cán bộ thuộc Bộ Chính trị quản lý.

5. Ban Tổ chức Trung ương cùng Ban Tuyên huấn Trung ương, Ban Khoa giáo Trung ương, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế và các ban kinh tế nghiên cứu việc sắp xếp, kiện toàn và phân công hợp lý giữa các trường đảng và các trường, lớp cán bộ quản lý, nhằm bảo đảm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đạt được những mục tiêu nói ở mục I.

Những việc nói trên phải căn bản làm xong trước cuối năm 1978.

Ban Tổ chức Trung ương cùng các ban của Trung ương chịu trách nhiệm đôn đốc, hướng dẫn các ngành, các cấp thi hành Chỉ thị này và thường kỳ báo cáo kết quả với Ban Bí thư.

T/M BAN BÍ THƯ

NGUYỄN DUY TRINH

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực