Tái cơ cấu ngân hàng để phát triển hệ thống ngân hàng lớn, đủ sức cạnh tranh

Thứ tư, 11/01/2012 23:19

 

 Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình

(ĐCSVN) –Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn tới, Việt Nam cần phát triển một hệ thống các tổ chức tín dụng có quy mô lớn, hiệu quả hoạt động cao, có đủ khả năng tận dụng cơ hội phát triển và đối phó được với những khó khăn của thị trường tài chính quốc tế”. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình đã nhấn mạnh như vậy khi trao đổi với báo chí xung quanh vấn đề về tái cấu trúc ngân hàng.

PV: Thưa Thống đốc, năm 2011, Ngành Ngân hàng đã góp phần thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát như thế nào?

Thống đốc Nguyễn Văn Bình: Năm 2011, tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống Ngân hàng đạt 12 – 13%. Đây là mức thấp nhất trong suốt quá trình đổi mới của nền kinh tế. Trung bình 10 năm qua (2000 – 2011), tăng trưởng tín dụng ngân hàng là 29,4%; 5 năm gần đây (2006 – 2011) con số này là 33%. Năm nay, chúng ta đã kiềm chế lạm phát được ở mức 18%. Hãy thử giả định rằng năm 2011, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng cũng ở mức 29,4% hoặc 33% thì lạm phát sẽ ở mức nào?. Theo tính toán sơ bộ của chúng tôi thì lạm phát sẽ ở mức 25% đến 27%. Như vậy, có thể thấy rằng, hoạt động tín dụng ngân hàng đã có đóng góp rất quan trọng vào kiềm chế lạm phát.

Hoạt động ngân hàng cũng đóng góp to lớn vào tăng trưởng hợp lý của nền kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư. Tăng trưởng kinh tế năm nay của Việt Nam sẽ vào khoảng 5,9% - 6%, đây là mức tăng trưởng hợp lý (không nóng quá mà cũng không làm mất đi động lực của quá trình phát triển lâu dài). Ở nước ta, hệ thống ngân hàng đáp ứng trên 80% nhu cầu vốn của cả nền kinh tế. Những năm trước đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng không cao hơn bao nhiêu (7%, 8%), nhưng tốc độ tăng trưởng tín dụng ngân hàng thường gấp từ 5 đến 7 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Năm nay, tỷ lệ này chỉ là 2 lần. Điều này cho thấy, tín dụng ngân hàng đã được đầu tư hiệu quả hơn. Thực tiễn đã chứng minh điều đó. Mặc dù tín dụng chung cho cả nền kinh tế chỉ tăng 12 – 13%, nhưng tín dụng cho khu vực sản xuất đã tăng trên 15%, tín dụng cho phi sản xuất, đặc biệt là cho bất động sản, chứng khoán giảm mạnh. Các lĩnh vực trọng điểm của nền kinh tế như: Sản xuất nông nghiệp, xuất khẩu, đã được ưu tiên vốn ở mức tối đa. Trong năm 2011, tín dụng cho nông nghiệp trung bình đạt 25% (có những thời vụ trên 30%). Nhờ đó mà năm nay, tuy là một năm có nhiều khó khăn, nhưng sản xuất nông nghiệp của nước ta vẫn đạt được kết quả to lớn trên nhiều lĩnh vực. Đời sống nông dân được cải thiện; bộ mặt nông thôn tiếp tục được đổi mới. Cả năm 2011, tín dụng cho xuất khẩu đã đạt mức tăng trưởng kỉ lục là 58%. Do vậy, mặc dù kinh tế thế giới và các thị trường xuất khẩu truyền thống của nước ta đang hết sức khó khăn, nhưng tăng trưởng xuất khẩu của ta rất ấn tượng với mức tăng trên 30% (cao hơn nhiều so với mức dự kiến 10% – 13%).

Hoạt động của hệ thống ngân hàng năm 2011 cũng đã góp phần điều chỉnh mức đầu tư toàn xã hội quá nóng trong những năm trước đây (từ mức trung bình 42% – 44% xuống mức 35% – 37%). Trong khi đó, hiệu quả đầu tư được nâng lên rõ rệt.

PV: Thưa Thống đốc, vì sao đến thời điểm này mới đặt ra vấn đề tái cơ cấu hệ thống ngân hàng?

Thống đốc Nguyễn Văn Bình:  Với sự phát triển nhanh về quy mô, các tổ chức tín dụng hiện nay đang tiềm ẩn những yếu kém, rủi ro nhất định. Các tổ chức tín dụng hoạt động thiếu công khai, minh bạch. Nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng không được đề cao.

Nguyên nhân là do xuất phát từ những yếu tố khách quan như: Kinh tế vĩ mô trong nước, ngoài nước kém ổn định, hệ thống doanh nghiệp nhiều yếu kém, khuôn khổ thể chế còn bất cập…, và yếu tố chủ quan như: Năng lực quản trị, điều hành, tài chính, trình độ cán bộ và công nghệ nhiều hạn chế,….

Những yếu kém hiện nay của một bộ phận các tổ chức tín dụng không được xử lý kịp thời có thể tác động bất lợi đến ổn định kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính quốc gia. Do đó, cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng là yêu cầu cần thiết để lành mạnh hóa, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các tổ chức tín dụng (TCTD), từ đó, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao hiệu quả đầu tư và tăng trưởng kinh tế bền vững.

Việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng sẽ hướng tới đến năm 2020, phát triển được hệ thống các tổ chức tín dụng đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế.

PV: Vậy, làm thế nào để cải cách nhanh và triệt để hệ thống ngân hàng Việt Nam, thưa Thống đốc?

Thống đốc Nguyễn Văn Bình: Muốn cải cách nhanh, triệt để hệ thống ngân hàng thì Chính phủ phải đóng vai trò quyết định. Đây là kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới. Cụ thể, Chính phủ thông qua các biện pháp can thiệp về chính sách, nguồn lực tài chính… đẩy nhanh quá trình cải cách. Đồng thời, thông qua những chính sách phù hợp khuyến khích được sự tham gia của khu vực tư nhân vào quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng.

Để hệ thống ngân hàng phát triển an toàn, hiệu quả bền vững sau cơ cấu lại thì cơ cấu lại tài chính là quan trọng, nhưng cơ cấu lại quản trị, hoạt động và kể cả khuôn khổ thể chế là yếu tố quyết định. Quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng sẽ được triển khai bằng các hình thức, biện pháp và lộ trình thích hợp. Chính phủ kiên quyết không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng.

PV: Xin Thống đốc cho biết những thuận lợi và khó khăn của việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng trong thời điểm hiện nay?

Thống đốc Nguyễn Văn Bình: Về thuận lợi, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng được đặt trong chương trình tổng thể tái cơ cấu đầu tư và tái cơ cấu doanh nghiệp để thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế. Do đó, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng nhận được sự quyết tâm và đồng thuận cao về mặt chính trị - xã hội.

Tuy nhiên, hiện nay, nền kinh tế đang chịu áp lực lạm phát cao và còn tồn tại những yếu tố có thể gây bất ổn vĩ mô. Nguồn lực của Chính phủ hạn chế do thâm hụt ngân sách lớn, nợ công đã ở mức cao và đang tăng nhanh. Cùng với đó, các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ tập trung kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô…. là những khó khăn mà chúng ta đang phải đối mặt trong quá trình tái cơ cấu ngân hàng.

Ngoài ra, những diễn biến không thuận lợi về kinh tế, tài chính trên thế giới, cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu, tâm lý người dân không ổn định dễ phản ứng thái quá nếu không được định hướng đúng đắn và tuyên truyền đầy đủ về các chủ trương, chính sách cơ cấu lại ngân hàng.… cũng đang có tác động bất lợi đến hệ thống ngân hàng trong nước.

PV: Trước những khó khăn trên, Ngân hàng Nhà nước sẽ đề xuất với Chính phủ các gói giải pháp đồng bộ nào để cơ cấu lại các tổ chức tín dụng hiện nay?

Thống đốc Nguyễn Văn Bình:  Để thực hiện được các mục tiêu, định hướng nêu trên, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nghiên cứu và đề xuất gói giải pháp đồng bộ cơ cấu lại các TCTD như sau:

Thứ nhất, khuyến khích việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại ngân hàng theo nguyên tắc tự nguyện, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ kinh tế của các bên có liên quan theo quy định của pháp luật. Để bảo đảm an toàn, ổn định của hệ thống, một số TCTD có mức độ rủi ro, nguy cơ mất an toàn cao sẽ được áp dụng các biện pháp xử lý đặc biệt theo quy định của pháp luật. Về phương diện các TCTD, cơ cấu lại TCTD cũng là cơ hội thuận lợi để các TCTD tăng nhanh hơn về quy mô và nâng cao khả năng cạnh tranh.

Thứ hai, các TCTD cần được đánh giá, phân loại thành TCTD lành mạnh, TCTD thiếu thanh khoản tạm thời và TCTD yếu kém. Các TCTD lành mạnh được tạo điều kiện phát triển về quy mô và năng lực cạnh tranh trong nước, quốc tế. Các TCTD yếu kém, tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn hệ thống cần được ưu tiên tái cơ cấu để trở lại thị trường hoạt động theo các chuẩn mực, quy định của pháp luật. Nếu TCTD yếu kém không thể phục hồi được thì phải được kiên quyết đưa ra khỏi thị trường một cách có trật tự để bảo đảm kỷ luật thị trường và sự lành mạnh, an toàn của hệ thống các TCTD. TCTD tạm thời thiếu thanh khoản sẽ được NHNN hỗ trợ để phục hồi, đồng thời phải chấn chỉnh, củng cố để hoạt động lành mạnh, an toàn hơn.

Thứ ba, trong quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD, đặc biệt là xử lý những TCTD yếu kém, các ngân hàng thương mại nhà nước và các ngân hàng thương mại cổ phần lành mạnh sẽ là lực lượng chủ lực tham gia tích cực với sự hỗ trợ thích hợp của Chính phủ và NHNN về cơ chế, chính sách và nguồn lực để thực hiện. Đây cũng là đặc trưng riêng phản ánh tính hệ thống chặt chẽ của các TCTD. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa Chính phủ và NHNN “bao cấp” toàn bộ cho việc cơ cấu lại TCTD. Tổn thất và chi phí trong quá trình xử lý yếu kém của hệ thống các TCTD cần phải được chia sẻ hợp lý giữa các bên có liên quan theo quy định của pháp luật (Nhà nước, chủ sở hữu, nhà đầu tư và người gửi tiền). Trong đó, chủ sở hữu ngân hàng phải chịu trách nhiệm đầu tiên và cuối cùng về những tổn thất xảy ra đối với TCTD và lợi ích của Nhà nước, tài sản của nhân dân phải được bảo vệ tốt nhất.

Thứ tư, thực hiện lành mạnh hóa tài chính với trọng tâm là xử lý nợ xấu, bảo đảm mức độ đủ vốn theo quy định của pháp luật và thay đổi cấu trúc của bảng cân đối kế toán theo hướng lành mạnh, bền vững hơn.

Thứ năm, củng cố, phát triển các hoạt động kinh doanh chính và giảm các lĩnh vực kinh doanh nhiều rủi ro, kém hiệu quả của TCTD. Tập trung tín dụng ngân hàng vào các ngành, lĩnh vực thuộc 3 khâu đột phá chiến lược trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 và phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ, sản xuất – chế biến, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Từng bước chuyển dịch mô hình kinh doanh của các ngân hàng thương mại theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng nguồn thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng.

Thứ sáu, đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng phù hợp hơn các thông lệ chuẩn mực quốc tế với trọng tâm là triển khai các hệ thống quản trị rủi ro phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực của Ủy ban Basel. Tăng tính minh bạch hóa hoạt động ngân hàng và tính đại chúng của các TCTD.

Các quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính quy mô nhỏ cần được củng cố, phát triển hợp lý để các tổ chức này hoạt động an toàn, hiệu quả và góp phần thực hiện chủ trương xóa đói, giảm nghèo bền vững, phát triển nông nghiệp, nông thôn mới và hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi.

Cùng với các giải pháp nêu trên, Chính phủ và NHNN sẽ triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp củng cố, chấn chỉnh và cơ cấu lại các tổ chức tín dụng. Đến năm 2015, hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam được lành mạnh hóa một bước quan trọng về tài chính; giảm bớt số lượng tổ chức tín dụng nhỏ, yếu kém và hình thành một số ngân hàng thương mại có quy mô lớn hơn, có khả năng cạnh tranh mạnh hơn.

PV: Xin trân trọng cảm ơn Thống đốc!

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực