|
Ảnh minh họa (Ảnh: T.T) |
Mặc dù có tốc độ tăng trưởng bình quân tới 46%/năm, nhưng quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam chỉ chiếm khoảng 15% GDP, thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực.
Dù tăng với tốc độ như vậy, quy mô thị trường này ở Việt Nam, với 15% GDP vẫn còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Malaysia (56% GDP), Singapore (38% GDP), Thailand (25% GDP).
Thị trường đang có xu hướng hạ nhiệt
Theo Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA), thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã hạ nhiệt trong 3 tháng đầu năm nay khi các quy định mới bắt đầu có hiệu lực. Tổng giá trị phát hành trong quý đầu năm đạt xấp xỉ 40.000 tỷ đồng; trong đó phần lớn là phát hành riêng lẻ với giá trị gần 31.000 tỷ đồng và phần còn lại là phát hành ra công chúng.
Ngoài ra, lãi suất của cả thị trường trái phiếu Chính phủ và thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong quý đầu năm đều có áp lực tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2021 do lo ngại lạm phát.
Từ năm 2019 đến nay lượng trái phiếu doanh nghiệp bắt đầu vượt lượng phát hành trái phiếu Chính phủ, thậm chí tỷ lệ năm 2021 là gấp đôi ở mức hơn 658.000 tỷ đồng. Đây là xu hướng phù hợp của tăng trưởng kinh tế.
Cơ quan quản lý cũng đã nhận thấy những rủi ro tiềm ẩn từ kênh huy động vốn này khi thị trường phát triển. Nghị định 153 quy định hoạt động phát hành về là một bước định hướng tất yếu về mặt chính sách để quản lý rủi ro hợp lý.
Ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Tổng thư ký VBMA nhận định tiềm năng phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn còn nhưng đây cũng là giai đoạn cần có những điều chỉnh về mặt chính sách để phát triển đồng đều lượng và chất. Đại diện VBMA cho rằng cần cần nhanh chóng đưa các công ty xếp hạng tín nhiệm có chất lượng đi vào hoạt động.
Nhiều doanh nghiệp mới phát hành trái phiếu
Theo số liệu của VBMA, năm 2021, tổng khối lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong nước đạt trên 658.000 tỷ đồng, tăng trưởng đến 42%.
Thị trường chứng kiến 1.033 đợt chào bán, gấp 2,8 lần so với năm 2020 và tương đương quy mô trung bình 636 tỷ đồng/đợt. Ngoài ra còn có 4 đợt phát hành ra quốc tế với tổng giá trị 1,425 tỷ USD. Trong đó tỷ lệ doanh nghiệp phát hành ra công chúng chỉ chiếm rất nhỏ chưa đến 4,6% (năm 2020 là 7,1%), phần lớn vẫn đến từ phát hành riêng lẻ.
VBMA lưu ý rằng có đến 243 doanh nghiệp lần đầu phát hành trái phiếu trong năm ngoái, chiếm 40% tổng khối lượng phát hành. Phần lớn là các cái tên mới đến từ ngành bất động sản và xây dựng.
Theo thống kê trong năm 2021, trái phiếu doanh nghiệp bất động sản tiếp tục mở rộng quy mô khi đạt hơn 232.300 tỷ đồng, tăng trưởng 37% và chiếm lớn nhất khoảng 35% tổng khối lượng phát hành.
Tiếp đến là nhóm ngân hàng phát hành khoảng 230.400 tỷ đồng, tăng mạnh 62% và cũng chiếm gần 35% tổng khối lượng chào bán. Các lĩnh vực lớn còn lại như doanh nghiệp tài chính chứng khoán, xây dựng, tiêu dùng, năng lượng...
Phần lớn trái phiếu được phát hành bởi các doanh nghiệp ít tên tuổi hoặc doanh nghiệp mới,, có yếu tố rủi ro về thiếu thông tin cho người mua.
Thống kê của VBMA còn cho thấy phần đông người mua trái phiếu là các tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán và các tổ chức khác. Trong khi đó, tỷ lệ nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp tham gia chưa đến 9% khi mua trái phiếu sơ cấp, cho thấy dư địa cho nhà đầu tư cá nhân còn rất lớn. Đây cũng là kênh đầu tư tiền nhàn rỗi của dân cư trong xu hướng xây dựng thị trường giấy tờ có giá.
Năm ngoái, các trái phiếu được phát hành thường có kỳ hạn khá ngắn với mức bình quân 3,8 năm; lãi suất chào bán trung bình là 7,75%/năm. Trong đó mức lãi suất huy động bình quân của ngành xây dựng cao nhất với 10,64%; tiếp đến là bất động sản 10,36% và ngành công nghiệp bình quân 10,16%; trong khi ngân hàng chào mức lãi suất thấp nhất với bình quân chỉ 4,37%/năm.
Ở các thị trường nước ngoài, trái phiếu đa phần không có tài sản đảm bảo, chỉ có các doanh nghiệp có tín nhiệm thấp mới bổ sung tài sản đảm bảo. Nhà đầu tư quyết định mua trái phiếu dựa trên mức tín nhiệm của tổ chức phát hành, không dựa trên tài sản đảm bảo. Tại Việt Nam, có khoảng 30% các trái phiếu bất động sản phát hành không có tài sản đảm bảo.
Thực tế, trái phiếu là kênh dẫn vốn cần thiết cho doanh nghiệp và cả chính phủ để phát triển nền kinh tế, cũng là kênh đầu tư có hiệu quả cao hơn tiền gửi tiết kiệm, lợi nhuận từ trái phiếu được cố định trước và thường thấp hơn đầu tư cổ phiếu. Xác xuất rủi ro của đầu tư trái phiếu vì thế cũng thấp hơn đầu tư cổ phiếu. Để giảm thiểu rủi ro, các nhà đầu tư nên lựa chọn trái phiếu chính phủ, trái phiếu của các ngân hàng, định chế tài chính, các công ty niêm yết, các doanh nghiệp lớn, có uy tín, công khai minh bạch thông tin. Nhà đầu tư cũng nên tìm hiểu thông qua các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp các thông tin về mức độ tín nhiệm của tổ chức phát hành.