Ảnh minh họa . (Ảnh:M.P)
Tín dụng liên tục tăng trưởng
Khu vực kinh tế trọng điểm (KTTĐ) Bắc Bộ có quy mô kinh tế chiếm gần 32% GDP của cả nước, thu ngân sách chiếm gần 33%, xuất khẩu hàng năm chiếm trên 30%. Các địa phương trong vùng đã tích cực thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Nghị quyết số 35/NQ-CP, Nghị quyết số 19/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; thành lập, đưa vào vận hành các trung tâm hành chính công các cấp và ban hành các chương trình hành động về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của các tỉnh trong vùng giai đoạn 2016-2018 tiếp tục được cải thiện qua từng năm và luôn có các địa phương nằm trong nhóm cao nhất nước (Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Ninh). Trong đó, tỉnh Quảng Ninh 2 năm liên tục (2017, 2018) đứng đầu cả nước.
Tại vùng KTTĐ Bắc Bộ, các tổ chức tín dụng trên địa bàn các tỉnh, thành phố vùng KTTĐ Bắc Bộ đã phát triển mạng lưới hàng nghìn chi nhánh, phòng giao dịch, tích cực huy động vốn để đáp ứng nhu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của vùng với số dư huy động bình quân luôn gấp hơn 1,5 lần dư nợ tín dụng.
Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước), với mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch của trên 80 tổ chức tín dụng (TCTD) và gần 320 quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn vùng KTTĐ Bắc Bộ, huy động vốn để đáp ứng nhu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của vùng luôn tăng trưởng với số dư huy động bình quân gấp hơn 1,5 lần dư nợ tín dụng. Tín dụng của khu vực những năm qua liên tục tăng và đến cuối tháng 9/2019 đạt 2,5 triệu tỷ đồng, tăng 8,98% so với 31/12/2018 và chiếm khoảng 33,1% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Trong đó, dư nợ đối với ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 35%; dư nợ đối với ngành thương mại và dịch vụ chiếm 61%, phù hợp với định hướng phát triển của khu vực, góp phần phát triển ngành công nghiệp - xây dựng, thương mại – dịch vụ, là các ngành trụ cột tăng trưởng và có mức tăng cao trong cơ cấu kinh tế của vùng.
Đáng chú ý, trong 9 tháng đầu năm 2019, trên địa bàn các tỉnh vùng KTTĐ Bắc Bộ đã tổ chức gần 60 hội nghị đối thoại ngân hàng - doanh nghiệp, qua đó các TCTD đã thực hiện giải ngân cho vay mới đạt khoảng 130 nghìn tỷ đồng cho gần 13 nghìn doanh nghiệp và một số đối tượng khác. Bên cạnh đó, các TCTD cũng đã thực hiện các hình thức hỗ trợ khác như giảm lãi suất, nâng hạn mức cho vay cho 1.100 doanh nghiệp với tổng dư nợ được hỗ trợ gần 85 nghìn tỷ đồng.
Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng đã tìm kiếm và dành nguồn vốn ưu đãi cho doanh nghiệp, triển khai nhiều chương trình, sản phẩm, dịch vụ cho doanh nghiệp thuộc các ngành nghề thế mạnh, trọng tâm của khu vực vùng KTTĐ Bắc Bộ như: sản phẩm tín dụng phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), chương trình tài trợ chuỗi cung ứng, chương trình tín dụng cho doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp, gói sản phẩm ưu đãi tín dụng ngắn hạn dành cho khách hàng là tập đoàn, tổng công ty, sản phẩm tín dụng tài trợ cho các ngành hàng thuộc lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực sản xuất kinh doanh… với quy mô các chương trình lên tới hàng trăm nghìn tỷ đồng. Đồng thời, ngành Ngân hàng đã tăng cường áp dụng công nghệ nhằm giảm bớt thủ tục vay vốn tạo thuận lợi cho các khách hàng doanh nghiệp trong tiếp cận vốn, chủ động nghiên cứu đầu tư các sản phẩm dịch vụ hiện đại, đồng hành cùng doanh nghiệp trong việc giới thiệu, cung cấp các giải pháp tài chính hỗ trợ cho hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó giúp các doanh nghiệp phát huy lợi thế phát triển sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng
Bên cạnh kết quả đạt được, việc triển khai các chương trình, chính sách cho vay đối với doanh nghiệp vùng Kinh tế trọng điểm Bắc bộ còn một số khó khăn. Theo đại diện Ngân hàng Nhà nước (NHNN), nhiều doanh nghiệp, đặc biệt DNNVV chưa đáp ứng được điều kiện vay vốn do năng lực tài chính hạn chế, dự án, phương án sản xuất kinh doanh thiếu khả thi, thông tin tài chính thiếu minh bạch, trong khi thiếu tài sản đảm bảo ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Các cơ chế hỗ trợ tiếp cận vốn cho DNNVV thông qua bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương, hỗ trợ vốn của Quỹ phát triển DNNVV thời gian qua chưa thực sự phát huy hiệu quả.
Bên cạnh đó, xuất phát từ những khó khăn chung của kinh tế trong nước cũng như nền kinh tế toàn cầu, thị trường đầu ra thiếu ổn định tác động tiêu cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và thu nhập của doanh nghiệp nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay và chất lượng tín dụng của các TCTD.
Đáng chú ý, công tác cải cách thủ tục hành chính và các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp tại một số địa phương hiệu quả chưa cao, phần nào cũng ảnh hưởng đến việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng của doanh nghiệp; công tác xử lý tài sản đảm bảo tiền vay khi khách hàng không trả được nợ còn gặp nhiều khó khăn do trình tự, thủ tục liên quan đến khởi kiện, thi hành án để xử lý tài sản đảm bảo còn bất cập dẫn đến tâm lý thận trọng hơn trong cho vay của các TCTD.
Cần giải pháp đồng bộ
Trước thực tế trên, trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả của các chương trình, chính sách tín dụng nhằm kịp thời hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn và đáp ứng nhu cầu vốn vay phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vùng KTTĐ Bắc Bộ, ngành Ngân hàng sẽ tập trung bám sát các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, NHNN đã xây dựng các Chương trình hành động của ngành, triển khai quyết liệt nhiều giải pháp góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Cụ thể, NHNN điều hành chính sách tiền tệ tín dụng chủ động, linh hoạt và đồng bộ nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận vốn tín dụng phục vụ sản xuất và kinh doanh cho người dân, doanh nghiệp. Xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là một trong năm lĩnh vực ưu tiên, tạo động lực tăng trưởng kinh tế, NHNN chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) tập trung vốn cho vay, quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với lĩnh vực này thấp hơn từ 1% - 1,5%/năm so với các lĩnh vực thông thường khác. Để đồng vốn lan toả rộng hơn, đi sâu vào nền kinh tế, song song với các chương trình tín dụng thương mại, NHNN chỉ đạo các TCTD triển khai các chương trình, chính sách tín dụng đặc thù hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn trong một số ngành/lĩnh vực như: nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp hỗ trợ, xuất khẩu, ứng dụng công nghệ cao…
Đặc biệt, NHNN cũng yêu cầu các TCTD đơn giản hóa thủ tục vay vốn, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử hiện đại, góp phần gia tăng tiện ích và tạo thuận lợi cho khách hàng doanh nghiệp. Để các ngân hàng chủ động, mạnh dạn cho vay hơn, NHNN đã hoàn thiện khung khổ pháp lý về hoạt động cho vay của TCTD theo hướng tăng cường thẩm quyền quyết định và chịu trách nhiệm của TCTD trong việc cho vay đối với doanh nghiệp, người dân theo quy định của Luật các TCTD. Ngoài ra, NHNN phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hoàn thiện cơ chế hỗ trợ DNNVV, tích cực triển khai Luật Hỗ trợ DNNVV; phối hợp chính quyền địa phương nhận diện những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp để kịp thời có giải pháp tháo gỡ./.