Đẩy mạnh tuyên truyền về phát triển năng lượng theo tinh thần Nghị quyết số 55-NQ/TW

Thứ năm, 12/12/2024 23:12
(ĐCSVN) - Cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền về phát triển năng lượng, thiết nghĩ, các cơ quan truyền thông cũng cần tập trung tuyên truyền về tác động của ngành năng lượng đối với môi trường để đảm bảo nhiệm vụ phát triển bền vững.
 Ảnh minh họa. (Nguồn: chinhphu.vn).

1. Đặt vấn đề

Năng lượng có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội. Đảm bảo an ninh năng lượng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Sau gần 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11 tháng 2 năm 2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định số 2233/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án Phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, ngành năng lượng đã đạt được những thành tựu nổi bật, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Năng lượng tái tạo đã có những bước tiến vượt bậc. Thị trường phát điện cạnh tranh từng bước được hình thành, tạo nền tảng quan trọng để mở cửa thị trường năng lượng, thu hút đầu tư và thúc đẩy tính minh bạch trong ngành điện… Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng đã được đẩy mạnh, giúp Việt Nam thu hút nhiều nguồn vốn và công nghệ hiện đại từ các đối tác quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, thị trường năng lượng của Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều thách thức lớn, như hạ tầng ngành năng lượng chưa theo kịp tốc độ phát triển. Tuy có tiềm năng rất lớn về năng lượng tái tạo, nhưng Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào năng lượng hóa thạch, đặc biệt là nhiệt điện than. Bên cạnh đó, khung pháp lý cho thị trường năng lượng vẫn chưa thực sự đồng bộ. Thực trạng này đòi hỏi cần phải tiếp tục đẩy mạnh tuyên tuyền hơn nữa quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về ngành năng lượng trong tình hình mới.

2. Quan điểm của Đảng ta về phát triển ngành năng lượng

Trong quá trình phát triển, quan điểm của Đảng ta về ngành năng lượng ngày càng sáng tỏ, nhờ đó ngành năng lượng đã có bước phát triển nhanh, tương đối đồng bộ trong tất cả các phân ngành, lĩnh vực. Có thể thấy, sau hơn 20 năm triển khai thực hiện Kết luận số 26-KL/TW, ngày 24/10/2003 của Bộ Chính trị khoá IX về Chiến lược và quy hoạch phát triển ngành điện lực Việt Nam và 17 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2007 của Bộ Chính trị khoá X về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050, ngành năng lượng nói chung và ngành điện lực nói riêng đã có bước phát triển nhanh, tương đối đồng bộ trong tất cả các phân ngành, lĩnh vực; bám sát định hướng và đạt được nhiều mục tiêu cụ thể đề ra.

Mới đây nhất, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11 tháng 2 năm 2020 về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết đã đánh giá, kể từ khi Kết luận số 26-KL/TW và Nghị quyết số 18-NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành, cung cấp năng lượng, đặc biệt là cung cấp điện cơ bản đáp ứng đủ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội với chất lượng ngày càng được cải thiện. Công nghiệp khai thác dầu khí và lọc hoá dầu phát triển mạnh; sản lượng khai thác dầu khí tăng cao, hình thành được một số cơ sở lọc hoá dầu quy mô lớn. Đã đầu tư xây dựng nhiều dự án mỏ than có công suất lớn; sản lượng khai thác than thương phẩm tăng; thuỷ điện phát triển nhanh, gần đây điện gió và điện mặt trời bắt đầu phát triển với tốc độ cao. Đầu tư xây dựng hạ tầng cung cấp điện có sự phát triển mạnh mẽ, là điều kiện quan trọng cho việc bảo đảm an ninh cung ứng điện. Đưa điện lưới quốc gia tới hầu hết mọi miền của đất nước, kể cả vùng sâu, vùng xa, biên cương, hải đảo. Tiêu thụ năng lượng gia tăng đáng kể, cơ cấu tiêu thụ năng lượng chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá. Việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả ngày càng được quan tâm. Đã tích cực thực hiện chuyển đổi ngành năng lượng sang hoạt động theo cơ chế thị trường; huy động được nguồn lực lớn cho đầu tư phát triển với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước. Ngành năng lượng trở thành ngành kinh tế năng động, đóng góp rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại nhiều địa phương và đất nước.

Tuy vậy, Nghị quyết cũng chỉ ra, ngành năng lượng nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia còn nhiều thách thức; các nguồn cung trong nước không đủ đáp ứng yêu cầu, phải nhập khẩu năng lượng ngày càng lớn; nhiều dự án điện bị chậm so với quy hoạch, kế hoạch; một số chỉ tiêu bảo đảm an ninh năng lượng đang biến động theo chiều hướng bất lợi. Công tác quản lý, khai thác nguồn tài nguyên năng lượng còn một số hạn chế. Hiệu quả khai thác, sử dụng năng lượng còn thấp. Cơ sở hạ tầng ngành năng lượng còn thiếu và chưa đồng bộ. Trình độ công nghệ trong một số lĩnh vực thuộc ngành năng lượng chậm được nâng cao, việc nội địa hoá và hỗ trợ thị trường từ các dự án trong ngành năng lượng cho hàng hoá cơ khí chế tạo sản xuất trong nước còn hạn chế. Chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động trong một số lĩnh vực còn thấp. Thị trường năng lượng cạnh tranh phát triển chưa đồng bộ, thiếu liên thông giữa các phân ngành, giữa phát điện với truyền tải điện; chính sách giá năng lượng còn bất cập, chưa hoàn toàn phù hợp với cơ chế thị trường, chưa tách bạch với chính sách an sinh xã hội. Một số dự án năng lượng do doanh nghiệp nhà nước đầu tư còn thua lỗ; một số dự án năng lượng đầu tư ra nước ngoài tiềm ẩn nhiều khả năng mất vốn. Công tác bảo vệ môi trường trong ngành năng lượng có nơi, có lúc chưa được quan tâm đúng mức, gây bức xúc xã hội.

Từ những hạn chế, yếu kém đó, đòi hỏi công tác tuyên truyền cần tiếp tục tập trung phổ biến sâu rộng trong toàn xã hội các quan điểm chỉ đạo của Đảng, theo định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mà Nghị quyết số 55 đã xác định. Cụ thể, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền 5 quan điểm chỉ đạo, đó là: Thứ nhất, bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia là nền tảng, đồng thời là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Ưu tiên phát triển năng lượng nhanh và bền vững, đi trước một bước, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Thứ hai, phát triển năng lượng quốc gia phải phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xu thế hội nhập quốc tế; nhanh chóng xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch, đa dạng hoá hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh; áp dụng giá thị trường đối với mọi loại hình năng lượng. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng; kiên quyết loại bỏ mọi biểu hiện bao cấp, độc quyền, cạnh tranh không bình đẳng, thiếu minh bạch trong ngành năng lượng.

Thứ ba, phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hoá các loại hình năng lượng; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch; khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng hoá thạch trong nước, chú trọng mục tiêu bình ổn, điều tiết và yêu cầu dự trữ năng lượng quốc gia; ưu tiên phát triển điện khí, có lộ trình giảm tỉ trọng điện than một cách hợp lý; chủ động nhập khẩu nhiên liệu từ nước ngoài cho các nhà máy điện. Phân bổ tối ưu hệ thống năng lượng quốc gia trong tất cả các lĩnh vực trên cơ sở lợi thế so sánh của từng vùng, địa phương.

Thứ tư, chú trọng nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong phát triển tất cả các phân ngành, lĩnh vực năng lượng; đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành năng lượng; từng bước làm chủ công nghệ hiện đại, tiến tới tự chủ sản xuất được phần lớn các thiết bị năng lượng.

Thứ năm, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường phải được xem là quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã hội. Tăng cường kiểm toán năng lượng; xây dựng cơ chế, chính sách đồng bộ, chế tài đủ mạnh và khả thi để khuyến khích đầu tư và sử dụng các công nghệ, trang thiết bị tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường, góp phần thúc đẩy năng suất lao động và đổi mới mô hình tăng trưởng.

Trên cơ sở 5 quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết 55 đã đề ra mục tiêu tổng quát: Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; cung cấp đầy đủ năng lượng ổn định, có chất lượng cao với giá cả hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Ngành năng lượng phát triển hài hoà giữa các phân ngành với hạ tầng đồng bộ và thông minh, đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN. Xây dựng thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước kết hợp với xuất, nhập khẩu năng lượng hợp lý; triệt để thực hành tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng. Chủ động sản xuất được một số thiết bị chính trong các phân ngành năng lượng; nâng cấp, xây dựng lưới điện truyền tải, phân phối điện tiên tiến, hiện đại.

Đồng thời, Nghị quyết 55 cũng đề ra một số mục tiêu cụ thể: Cung cấp đủ nhu cầu năng lượng trong nước, đáp ứng cho các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021 - 2030; tỉ lệ các nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt khoảng 15 - 20% vào năm 2030, 25 - 30% vào năm 2045; tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng đến năm 2030 đạt mức 105 - 115 triệu TOE, năm 2045 đạt mức 160 - 190 triệu TOE; xây dựng hệ thống lưới điện thông minh, hiệu quả, có khả năng kết nối khu vực, độ tin cậy cung cấp điện năng thuộc tốp 4 nước dẫn đầu ASEAN, chỉ số tiếp cận điện năng thuộc tốp 3 nước dẫn đầu ASEAN; các cơ sở lọc dầu đáp ứng tối thiểu 70% nhu cầu trong nước, đủ năng lực nhập khẩu khí tự nhiên hoá lỏng (LNG) khoảng 8 tỉ m3 vào năm 2030 và khoảng 15 tỉ m3 vào năm 2045; giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển bình thường ở mức 15% vào năm 2030, lên mức 20% vào năm 2045…

Tầm nhìn đến năm 2045, bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; các phân ngành năng lượng phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; hệ thống hạ tầng năng lượng phát triển đồng bộ, hiện đại, khả năng kết nối khu vực và quốc tế được nâng cao; chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học - công nghệ và năng lực quản trị ngành năng lượng đạt trình độ tiên tiến của một nước công nghiệp phát triển hiện đại.

Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu trên, Đảng ta đã đề ra 10 nhiệm vụ, giải pháp, đó là: 1) Phát triển các nguồn cung năng lượng sơ cấp theo hướng tăng cường khả năng tự chủ, đa dạng hoá, bảo đảm tính hiệu quả, tin cậy và bền vững (dầu khí, than, năng lượng tái tạo, các nguồn năng lượng khác); 2) Phát triển nhanh và bền vững ngành điện đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (thuỷ điện, điện gió và điện mặt trời, nhiệt điện, điện sinh khối…); đẩy nhanh lộ trình thực hiện thị trường điện cạnh tranh; 3) Cơ cấu lại các ngành và khu vực tiêu thụ năng lượng song song với thực hiện chính sách về sử dụng năng lượng sạch, tiết kiệm và hiệu quả; 4) Phát triển hạ tầng năng lượng bền vững, kết nối khu vực; nâng cao nội lực ngành công nghiệp chế tạo, dịch vụ phục vụ ngành năng lượng; 5) Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực năng lượng; khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia xã hội hoá phát triển năng lượng; 6) Đổi mới cơ chế, chính sách, phát triển thị trường năng lượng đồng bộ, liên thông, hiện đại và hiệu quả, phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa; 7) Phát triển khoa học - công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành năng lượng; 8) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế; tích cực, chủ động xây dựng các đối tác chiến lược để thực hiện mục tiêu nhập khẩu năng lượng trong dài hạn và đầu tư tài nguyên năng lượng ở nước ngoài; 9) Thực thi chính sách bảo vệ môi trường ngành năng lượng gắn với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững; 10) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong phát triển ngành năng lượng.

3. Phát triển năng lượng cần gắn với sự phát triển bền vững

Cùng với việc cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền về phát triển năng lượng, thiết nghĩ, các cơ quan truyền thông cũng cần tập trung tuyên truyền về tác động của ngành năng lượng đối với môi trường để đảm bảo nhiệm vụ phát triển bền vững.

Thực tiễn cho thấy, sức ép môi trường đã đe dọa tăng trưởng bền vững trong dài hạn của Việt Nam. Tăng trưởng trong nhiều năm qua phần nào có được với cái giá phải trả về môi trường khá lớn. Tài nguyên cạn kiệt nhanh chóng là vấn đề rất đáng quan ngại. Có thể thấy, than, tài nguyên nước… là một trong những yếu tố đầu vào của sản xuất điện (nhiệt điện, thuỷ điện). Mức tiêu thụ năng lượng gia tăng sẽ làm tăng ô nhiễm môi trường nếu dựa nhiều vào nhiệt điện than.

Các vấn đề về môi trường cũng đe dọa tăng trưởng dài hạn không kém gì các thách thức về năng suất. Nếu vẫn tiếp tục theo đuổi mô hình tăng trưởng như hiện nay, đến năm 2035 các vấn đề này sẽ càng trầm trọng thêm, trong đó quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa càng làm cạn kiệt thêm tài nguyên nước và năng lượng. Một bài học kinh nghiệm là chất lượng môi trường không khí và nước không chỉ quan trọng đối với các vấn đề sinh thái và chất lượng cuộc sống nói chung mà còn đối với việc nâng cao thu nhập.

Rõ ràng, năng lượng hoá thạch có liên hệ trực tiếp tới vấn đề cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, cũng như gây nguy cơ cao ô nhiễm môi trường. Năng lượng Việt Nam phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên nhiều hơn hầu hết các quốc gia khác trong khu vực. Điều này thể hiện rõ nhất trong cơ cấu sản xuất điện. Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), 4 tháng năm 2024, sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống đạt 96,16 tỉ kWh. Điểm đáng chú ý, nhiệt điện than chiếm tỷ trọng lớn nhất, với 56,89 tỉ kWh, chiếm 59,2%, trong khi đó thủy điện chỉ đạt 14,41 tỉ kWh, chiếm 15%; tua bin khí 8,52 tỉ kWh, chiếm 8,9%; năng lượng tái tạo 14,55 tỉ kWh, chiếm 15,1% (trong đó điện mặt trời đạt 9,26 tỉ kWh, điện gió đạt 4,78 tỉ kWh); điện nhập khẩu: 1,56 tỉ kWh, chiếm 1,6%.

Với nhiệt điện than chiếm tỷ trọng lớn nhất, nên khó có thể nói chất lượng không khí được đảm bảo. Chất lượng không khí giảm do tăng sử dụng nhiên liệu hóa thạch để phát điện, sử dụng trong công nghiệp và vận tải (xăng dầu). Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, chất lượng không khí thấp là một trong những nguyên nhân làm trẻ em dưới 5 tuổi mắc các bệnh đường hô hấp với tỉ lệ cao. Do chất lượng không khí thấp, ước tính có hàng nghìn ca tử vong sớm mỗi năm có liên quan đến nhiệt điện than.

Nguy cơ do biến đổi khí hậu: Biến đổi khí hậu làm trầm trọng thêm những hệ lụy do sử dụng tài nguyên thiên nhiên không bền vững và suy thoái môi trường. Hàng loạt các vụ động đất xảy xa ở miền Trung Tây Nguyên trong thời gian vừa qua được cho là có liên quan đến thuỷ điện là một ví dụ điển hình.

Có thể khẳng định, tiêu thụ năng lượng ở Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng, thậm chí tăng nhanh hơn bất kì quốc gia nào khác trong khu vực, chủ yếu là do tăng tiêu thụ điện năng. Theo xu thế và chính sách hiện nay, tỷ trọng than dùng cho phát điện sẽ tăng từ 32% năm 2014 lên đến 54% năm 2030, trong khi khoảng 60% lượng than dùng cho sản xuất điện sẽ phải nhập khẩu. Cường độ tiêu thụ năng lượng của Việt Nam cũng thuộc hàng cao nhất thế giới, một trong những nguyên nhân chính là do sử dụng năng lượng kém hiệu quả.

Do đó, để hướng tới phát triển bền vững, Việt Nam cần có những chọn lựa đúng đắn trong quá trình phát triển. Việt Nam đang ở thời điểm mang tính quyết định, lựa chọn đúng sẽ tránh được suy thoái môi trường và phí tổn để khắc phục hậu quả môi trường như nhiều quốc gia đã phải đối mặt. Tăng trưởng các-bon thấp đòi hỏi phải ưu tiên đầu tư tính đến phí tổn môi trường, đảm bảo phát triển bao trùm và có khả năng chống chịu, và đây chính là một sự lựa chọn bền vững và khả thi trong dài hạn. Theo đó, cần phải có thể chế mạnh để giám sát và thực thi các kế hoạch, chính sách, pháp luật đối với quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên bền vững trong ngành năng lượng.

4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phát triển năng lượng bền vững

Trước hết, các cơ quan truyền thông cần đẩy mạnh tuyên truyền những kết quả bước đầu đạt được sau gần 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11 tháng 2 năm 2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định số 2233/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án Phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Các cơ quan thông tin truyền thông cần có những biện pháp để tổ chức tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của nhân dân, cộng đồng về vai trò, ý nghĩa của tăng trưởng bền vững, cũng như ý nghĩa của ngành năng lượng trong đời sống kinh tế - xã hội cũng như sự cần thiết phải thúc đẩy phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh.

Để tiếp tục nâng cao chất lượng tuyên truyền về ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh trong tình hình mới, trước mắt, cần đổi mới, nâng cao nâng cao tính định hướng chính trị tư tưởng không những cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên của bản báo, mà còn đối với đội ngũ cộng tác viên. Các tờ báo cần huy động nhiều hơn nữa các nhà hoạt động chính trị thực tiễn, nhiều nhà nghiên cứu lý luận để có nhiều bài viết giải thích sâu sắc, có sức thuyết phục những nội dung chủ yếu trong từng chỉ thị, nghị quyết của Đảng về ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh.

Trong hoạt động tuyên truyền, báo chí cũng cần kịp thời phổ biến quá trình thể chế hoá nghị quyết, trong đó tập trung đăng tải, giải thích, hướng dẫn việc thực hiện các văn bản pháp luật của Quốc hội, các chính sách của Chính phủ, chương trình hành động của các cấp, các ngành, các địa phương triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh.

Cùng với việc gia tăng hàm lượng thông tin tuyên truyền, đa dạng hoá thể loại, báo chí cũng cần tích cực tham gia vào công tác lý luận. Do đó, báo chí cần đi sâu tham gia tổng kết thực tiễn quá trình thực hiện nghị quyết về ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, từng lĩnh vực, từng đoàn thể. Đẩy mạnh sự phối hợp giữa cơ quan báo chí với các cơ quan chức năng, địa phương để có thể có những kiến nghị với Đảng bổ sung, hoàn thiện các chủ trương, chính sách hoặc xây dựng các chính sách mới về ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh cho phù hợp với điều kiện mới.

Lãnh đạo các cơ quan thông tấn báo chí cần chú trọng việc quán triệt, học tập các nghị quyết, chương trình phát triển ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh cho cán bộ, phóng viên. Thường xuyên nâng cao trình độ nhận thức của phóng viên về ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh. Đây là việc làm vô cùng cần thiết để bổ sung, hoàn thiện phần kiến thức nếu còn thiếu hụt của phóng viên.

Người lãnh đạo, quản lý thường được tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin hơn, thông tin khái quát hơn, có độ tin cậy cao hơn biên tập viên, phóng viên, thông qua các cuộc giao ban, hội nghị, hội thảo, tiếp xúc với lãnh đạo cấp cao... Do vậy, định hướng thông tin của lãnh đạo có vai trò quan trọng giúp cho phóng viên, biên tập viên nắm được thông tin, hướng đưa tin, nguồn khai thác tin ở đâu… để có được thông tin nhanh, chính xác, đúng định hướng. Lãnh đạo báo giúp phóng viên đưa tin theo quan điểm, tôn chỉ, mục đích của tờ báo làm cho thông tin có bản sắc riêng, quan điểm riêng, tạo sự tin cậy của bạn đọc. Bằng uy tín, mối quan hệ của mình, lãnh đạo tổ chức, giới thiệu cho phóng viên tiếp xúc với nguồn tin tốt để có thông tin hay, độc đáo.

Xây dựng kế hoạch, kiểm tra kế hoạch tuyên truyền trên cơ sở những qui chế, qui định của cấp trên, Ban biên tập các cơ quan báo chí cần cụ thể hoá xây dựng cho mình kế hoạch công tác hằng ngày, hằng tuần..., nội dung cần bao quát những việc gì cần làm ngay, những việc gì có tính giai đoạn “dài hơi”, định hướng. Kế hoạch phải cụ thể, có tính khả thi, không gò ép và có tính mở đảm bảo cấp dưới có thể hiểu và thực hiên được. Quá trình triển khai, quán triệt cần phải ngắn gọn, rõ ràng, đầy đủ và có những vấn đề cần được thảo luận tạo sự thống nhất cao, khi có những tình huống đột xuất có thể xử lý kịp thời. Khi đã có kế hoạch rồi cần triển khai có hiệu quả kế hoạch đã đề ra. Tổ chức công việc, người lãnh đạo, quản lý căn cứ vào năng lực, tinh thần làm việc, điều kiện làm việc của phóng viên, biên tập viên và từng bộ phận nghiệp vụ để phân công công tác.

Việc phân công, tổ chức công việc là một yếu tố quan trọng để có thông tin tốt. Khi có tin, bài rồi, việc tổ chức biên tập, chỉ đạo xuất bản, bố trí vào các chuyên trang, chuyên mục cũng rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tin bài. Để nâng cao chất lượng thông tin, cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy chi bộ, vai trò gương mẫu của đảng viên. Phát huy vai trò của các đoàn thể trong hoạt động chuyên môn. Vai trò lãnh đạo phải được thể hiện từ khâu đầu tới khâu cuối của quá trình định hướng, khai thác, xử lý thông tin.

Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của cán bộ, phóng viên thông qua các hoạt động hành chính, thông qua chỉ tiêu tin bài, thông qua chính nội dung tin bài hoặc thông qua cán bộ lãnh đạo các cấp để kiểm tra, trên cơ sở kết quả kiểm tra để điều chỉnh bổ sung kế hoạch, kịp thời giải quyết và uốn nắn những hạn chế, thiếu sót của cấp dưới. Việc làm này giúp lãnh đạo nắm sâu hơn, chắc hơn, chỉ đạo tình hình hoạt động của cơ quan báo chí có hiệu quả hơn.

Người làm báo không chỉ cần có trình độ về báo chí mà đòi hỏi còn phải có trình độ về lĩnh vực kinh tế nói chung, ngành năng lượng và thị trường năng lượng cạnh tranh nói riêng. Chỉ khi được trang bị kiến thức về ngành năng lượng và thị trường năng lượng cạnh tranh thì khi đó, chúng ta mới có được khả năng tuyên truyền nhạy bén, có được đánh giá, phân tích sâu sắc trên cơ sở quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh.

Đổi mới công tác tuyên truyền về ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh. Thông qua các chuyên trang, chuyên mục và các hoạt động chính trị xã hội, đối ngoại làm cho mọi đối tượng hiểu và thực hiện có hiệu quả về đường lối, chủ trương, chính sách phát triển ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh của Đảng và Nhà nước. Nâng cao chất lượng một số thể loại báo chí nhằm tăng cường định hướng thông tin, dư luận xã hội, thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mỗi tờ báo. Thực hiện tốt nhiệm vụ đó góp phần tuyên truyền một cách khoa học, có hiệu quả nhất các chủ trương, đường lối và nhiệm vụ về ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh của Đảng, Nhà nước. Tăng cường tổ chức giao lưu trực tuyến, các hội thảo khoa học, diễn đàn vì thông qua hình thức này xã hội có thể hiểu rõ hơn về ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh.

Đa dạng hoá công tác kêu gọi sự hỗ trợ từ cộng đồng có thể đóng góp vào phát triển ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh như hệ thống loa, pano, áp phích.

Các tổ chức, cơ quan, bộ, ngành có liên quan cần phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam; các cơ quan thông tấn báo chí tổ chức các cuộc thi viết về ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh; những cuộc thi viết về những tấm gương người tốt việc tốt có những sáng tạo về đổi mới công nghệ sản xuất; những sáng chế, phát minh mới tiết kiệm năng lượng… theo định hướng phát triển ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh của của Đảng.

Đẩy mạnh đầu tư công nghệ thông tin trong các cơ quan báo chí. Với ưu thế và sự trợ giúp của công nghệ, thông tin có vị trí ngày càng quan trọng, là chìa khoá quyết định những ưu thế vượt trội của một tờ báo. Chỉ với 1 chiếc điện thoại thông minh, độc giả có thể đọc báo ở mọi nơi, mọi lúc. Để có thể thực hiện tốt hơn nữa công tác tuyên truyền về ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh, báo chí cần chuẩn bị đủ điều kiện để đẩy mạnh phát triển công nghệ, qua đó nâng cao chất lượng hiệu quả, phục vụ nhu cầu tìm hiểu của bạn đọc, đồng thời tạo khả năng tiếp nhận, phản hồi những ý kiến đóng góp của bạn đọc đối với Đảng và Nhà nước ta về phát triển ngành năng lượng và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh./.

TS. Nguyễn Công Dũng, Tổng biên tập Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực